Sơ đồ tư duy Con chó Bấc dễ nhớ, ngắn gọn
Sơ đồ tư duy bài Con chó Bấc Ngữ văn lớp 9 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 9.
A/ Tác giả Tác phẩm bài Con chó Bấc
I. Tác giả
- Giắc Lân - đơn (1876 – 1916) là nhà văn Mĩ
- Ông trải qua thời thanh niên vất vả từng làm nhiều nghề để kiếm ăn và sớm tiếp cận với tư tưởng chủ nghĩa xã hội.
- Tác phẩm tiêu biểu: Tiếng gọi nơi hoang dã, Sói biển, Nanh trắng,…
II. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Thể loại: truyện ngắn
2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
Văn bản Con chó Bấc được trích từ tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã
3. Bố cục: 3 phần
+ Phần 1 (Đoạn 1): Giới thiệu tình cảm mới của Bấc
+ Phần 2 (Đoạn 2): Tình cảm của Thoóc-tơn với Bấc
+ Phần 3 (Đoạn 3, 4, 5): Tình cảm của Bấc với chủ
4. Giá trị nội dung
Văn bản là bài ca ca ngợi lòng nhân ái: Con người và loài vật đều cần đến tình yêu thương. Tình yêu thương nào cũng cần chân thật, sâu nặng và thuỷ chung. Qua đó bộc lộ những nhận xét tinh tế của tác giả về con chó Bấc đồng thời thể hiện tình cảm của tác giả với loài vật.
5. Giá trị nghệ thuật
- Đi sâu miêu tả nội tâm (tâm hồn) loài vật bằng trí tưởng tượng phong phú.
- Truyện vẫn rất sinh động, chân thật, nhờ tài năng quan sát, vốn hiểu biết và tình cảm của tác giả với loài vật.
B.Sơ đồ tư duy bài Con chó Bấc
C. Dàn ý phân tích bài Con chó Bấc
1. Tình cảm của Thoóc-tơn với con chó Bấc
- Anh chăm sóc
- Không quên chào hỏi thân mật, nói lời vui vẻ, trò chuyện
⇒ Anh quý trọng, thương yêu những con vật của mình, coi chúng là những người bạn
- Dùng 2 bàn tay túm lấy đầu Bấc, dựa đầu anh vào đầu nó
- Khe khẽ thốt lên những tiếng rủa, nói nựng âu yếm
⇒ Cách biểu hiện tình cảm giản dị, chân thật, hồn nhiên, coi nó như một con người
- Anh muốn kêu lên trân trọng Trời đất!
⇒ Yêu quý nhau, hiểu nhau như người với người. Với Thoóc-tơn, Bấc không phải là con chó mà là con anh, bạn anh.
2. Những biểu hiện tình cảm của con chó Bấc đối với Thoóc-tơn
- Biểu hiện bên ngoài:
há miệng ... cắn lấy bàn tay ... ép răng xuống mạnh ... hằn vào da thịt
+ Bấc chỉ tôn thờ ở xa xa một quãng, nằm phục ở chân Thoóc-tơn, ngước nhìn
+ Nằm xa xa, quan sát hình dáng anh
+ Ních chồm lên, tì cái đầu to tướng lên đầu gối Thoóc-tơn
⇒ Cách biểu hiện của Bấc khác hẳn mang nét riêng với những con chó khác.
⇒ Bấc trung thành, tôn thờ với chủ bằng cách biểu lộ hết sức đặc biệt.
- Tâm hồn của Bấc:
+ Không có gì vui sướng, cái ôm ghì
+ Nó tưởng quả tim mình nhảy tung
+ Việc thay thầy đổi chủ, lo sợ
+ Sợ Thoóc-tơn biến khỏi cuộc đời nó
+ Ám ảnh, trong cả giấc mơ
+ Vùng dậy, trườn qua gió lạnh ...
⇒ Bấc được nhân cách hoá như một con người có tâm hồn phong phú, có
D. Bài văn phân tích Con chó Bấc
Tình yêu thương là một trong những tình cảm tốt đẹp cần được nâng niu và gìn giữ. Những tình cảm đẹp đẽ ấy không chỉ được trao tặng giữa con người với con người mà còn trao nhau ở con người với mỗi loài vật. “Con chó Bấc” trong “Tiếng gọi nơi hoang dã” của Giắc Lân-đơn đã thể hiện nên những giá trị nhân văn cao đẹp đó. Đoạn trích như một bài ca ngọt ngào soi rọi tâm hồn mỗi người đọc về tình thương.
“Tiếng gọi nơi hoang dã” (1903) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của G. Lân-đân. Truyện là kết quả của những chuyến đi cùng với các nhóm tìm vàng lên tận miền bắc Ca-na-đa gần Bắc cực. “Tiếng gọi nơi hoang dã” kể về số phận con chó Bấc. Bấc là một chú chó nhà khoẻ mạnh tinh khôn. Nó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã phải qua tay nhiều ông chủ tàn bạo, độc ác. Chỉ có Giôn Thoóc-tơn là ông chủ duy nhất thương yêu nó và cảm hoá được nó. Nhóm tìm vàng của Thoóc-tơn cùng lũ chó tiến sâu mãi vào núi rừng miền Bắc hoang vu, lạnh lẽo. Sống giữa thiên nhiên hoang dại, khắc nghiệt, tiếng gọi của rừng thẳm, của tổ tiên hoang dã cứ thức dậy trong lòng Bấc. Dần dần nó đã trở thành một con chó to lớn hung dữ, ranh ma, chỉ thờ phụng riêng mình Thoóc-tơn.
Ở đoạn thứ nhất, tác giả kể về quan hệ của con chó Bấc đối với gia đình thẩm phán Mi-lơ là chủ để lấy đó làm cơ sở so sánh tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn: “Với những cậu con trai của ông Thẩm, trong những buổi đi săn hoặc đi lang thang đây đó, tình cảm ấy chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường; với những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm, là trách nhiệm ra oai hộ vệ. Còn đối với bản thân ông Thẩm, đó là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”. Mức độ tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn lại hoàn toàn khác những tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt thì phải đến Giôn Thoóc-tơn mới khơi dậy lên được.
Với con chó Bấc thì Giôn Thoóc-tơn là một ông chủ lí tưởng: Các ông chủ trước chăm sóc nó chỉ là vì nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh (trông nhà hoặc kéo xe trượt tuyết để đi tìm vàng) chứ không thực sự yêu thương nó. Trước hết, ta hãy xem tình cảm của Thoóc-tơn đôi với con chó Bấc. Thoóc-tơn đối xử với bầy chó của anh như thể chúng là con cái của anh vậy. Riêng đối với Bấc, trong ý nghĩ và trong tình cảm, dường như anh không coi nó chỉ là một con chó, mà còn là một người bạn thân thiết. Con người này đã cứu sống nó đó là một lẽ; nhưng hơn thế nữa, anh là một ông chủ lí tưởng. Những người khác chăm nom chó của họ xuất phát từ ý thức về nghĩa vụ và về lợi ích kinh doanh; còn anh chăm sóc chó của mình như thể chúng là con cái của anh vậy, bởi vì anh không thể nào không chăm sóc. Và anh còn chăm sóc nhiều hơn nữa kia. Anh không bao giờ quên chào hỏi thân mật hoặc nói lời vui vẻ và ngồi xuống chuyện trò lâu với chúng (mà anh gọi là (tầm phào), điều mà cả anh và chúng đều thích thú). Anh có thói quen dùng hai bàn tay túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đẩy tới đẩy lui, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với Bấc lại là những lời nói nựng âu yếm. Bấc thấy không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy và những tiếng rửa rú ri bên tai ấy và theo mỗi cái lắc đẩy tới đẩy lui, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi ca thể vì quá ngây ngất. Và khi được buông ra, nó bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động…
Tình yêu thương giữa người và vật nuôi cũng có “cho” có “nhận” trong mối giao cảm, giao hòa, tương tác. Đây là một đoạn văn tuyệt bút nói về mối quan hệ sâu sắc, đẹp đẽ và hiếm có ấy: “Khi được buông ra, nó bật đứng dậy thẳng lên, miệng cười, mắt hùng hồn diễn cảm, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động. Những lúc ấy, Giôn Thoóc-tơn lại kêu lên, trân trọng: “Trời đất! Đằng ấy hầu như biết nói đấy!”. Bấc như một đứa trẻ giàu tình cảm, nó “có một kiểu biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta”. Nó hay cắn vào tay Giôn Thoóc-lơn “ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc sau mới mất”. Và chỉ có anh mới cảm nhận một cách hạnh phúc rằng “cái cắn vờ ấy là cử chỉ âu yếm, yêu thương”. Trong đoạn văn này, mục đích chủ yếu của Lân-đơn là tập trung miêu tả những biểu hiện tình cảm của con chó Bấc. Trước đó, nhà văn kể về tình cảm của Thoóc-tơn đối với bầy chó của anh nói chung và đối với con chó Bấc nói riêng, nhằm nhấn mạnh tình cảm đặc biệt mà con chó Bấc dành cho anh. Không phải đối với bất cứ ông chủ nào con chó Bấc cũng yêu quý như với Thoóc-tơn vì Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác, chỉ riêng Thoóc- tơn là có lòng nhân từ với nó.
Đọc những dòng miêu tả Bấc, chúng ta sẽ thấy tài quan sát và sự hiểu biết của nhà văn đối với loài chó: “Bấc có cái tài biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta. Nó thường hay há miệng ra cán lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu. Và cùng như Bấc hiểu các tiếng rủa là những lời nói nựng, con người cũng hiểu cái cắn vờ ấy là cử chỉ vuốt ve.” Lân-đơn có những nhận xét tinh tế, tỉ mỉ khi miêu tả từng con chó trong bầy chó kéo xe. Những biểu hiện tình cảm của chúng là đặc điểm chung của loài chó nhưng nhà văn chú trọng đến nét riêng của mỗi con để làm nổi bật nét khác biệt của Bấc so với những con chó khác trong bầy.
Bấc có tình cảm đặc biệt đối với Thoóc-tơn. Có lúc nó bày tỏ thái độ âu yếm qua những cái cắn vờ hoặc theo sát Thoóc-tơn không rời một bước: Tuy nhiên, tình thương yêu của Bấc phần lớn được diễn đạt bằng sự tôn thờ. Mặc dù nó sung sướng đến cuồng lên mỗi khi Thoóc-tơn chạm vào nó hoặc nói chuyện với nó, nhưng nó không săn dồn những biểu hiện ấy.
Lân-đơn với tình yêu thương loài vật, với cái tài quan sát và diễn tả, đặc biệt ông đã phát hiện ra, đã “sống" với những rung động, với những biến thái tâm tình, ông đã tả, hiểu được” ngôn ngữ riêng của một vật nuôi đã được thuần dưỡng và gắn bó lâu đời với con người, một vật nuôi khôn nhất, trung thành nhất và giàu tình cảm nhất, để nói lên một cách xúc động về mối quan hệ “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến mức cuồng nhiệt” giữa Giôn Thoóc-tơn và con Bấc.
Nếu như phần đầu, nhà văn đã lấy mối quan hệ giữa con Bấc với gia đình Thẩm phán Mi-lơ để làm nổi bật mối tình yêu thương đặc biệt giữa con Bấc với Giôn Thoóc-tơn, thì ở phần giữa ông lại so sánh cách biểu hiện tình cảm của con Bấc và những con chó khác đối với chủ, mỗi con một vẻ. “Xơ-kit có thói quen thọc cúi mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mũi cho đến khi được vỗ về. Lúc thì tựa cái đầu to lớn của nó lên đầu gối của Thoóc- tơn”. Còn Bấc thì diễn đạt tình thương yêu bằng “sự tôn thờ”, sung sướng đến “cuồng lên” khi được Thoóc-tơn “vuốt ve” hoặc “nói chuyện” với nó. Thế giới loài vật được Lân-đơn nhìn nhận và miêu tả như thế giới con nguời tràn ngập tình yêu thương và biết sống trong sự giao cảm đầy hạnh phúc! Con Bấc “thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hàng giờ, mắt hau háu, tỉnh táo, linh lợi, ngước nhìn thẳng vào mặt anh, chăm chú vào đấy, xem xét kỹ nét mặt, theo dõi với một mối quan tâm đặc biệt từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên thần sắc”. Có lúc con Bấc ngắm nhìn chủ từ phía sau, và bằng linh cảm, giao cảm giữa người và chó, anh quay đầu nhìn lại, đôi mắt Thoóc-tơn “tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng”, còn “tình cảm của Bấc cũng ngời ánh lên qua đôi mắt nó. Cách ngồi, cái ngước nhìn, cái lắng nghe và theo dõi cặp mắt và ánh mắt của con chó Bấc hiện lên trên trang văn như một linh hồn người, trong biểu cảm có chiều sâu lí trí, trong tâm hồn có cả chiều cao của tư duy. Con chó Bấc không chỉ có tình yêu thương mà còn có cả những suy nghĩ sống bên “Ông chủ lí tưởng”.
Con chó Bấc cũng có nỗi lo. Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã qua, luôn luôn ám ảnh nó, “nó không muốn rời Thoóc-tơn ra một bước”. Nó luôn luôn sợ, Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời của nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Cả trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Đêm nào nó cũng tỉnh giấc giữa chừng, rồi trườn qua giá lạnh đến đứng ở mép lều “lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ”. Chi tiết ấy là một nét vẽ cảm động gợi lên trong lòng ta nhiều cảm thương xót xa. À ra thế đó, không chỉ riêng ở con người, mà cả những vật nuôi như con chó Bấc tinh khôn, tình cảm này cũng sợ ly biệt! Nhà văn Lân-đơn đã nói được điều đó và diễn đạt bằng những hình ảnh giàu giá trị nhân bản.
Như vậy, trong đoạn trích Con chó Bấc, nhà văn Lân- đơn đã thể hiện một cách cảm động tình cảm của chú chó Bấc đối với người chủ tốt bụng của mình Giôn Thoóc-tơn. Đó cũng là tình cảm thật đẹp giữa con người và những loài vật nuôi. Qua tác phẩm nhà văn Lân- đơn như muốn truyền tải những thông điệp nhân văn, đó là những loài động vật cũng có những tình cảm, cảm xúc, và những xúc cảm ấy cũng rất đáng được tôn trọng, và nhân vật ông chủ Giôn Thoóc-tơn cũng là nhân vật tư tưởng để nhà văn kí thác những quan điểm đó, ông biết yêu thương, quý trọng với những con vật, những người bạn đồng hành của mình.
E. Một số lời bình về tác phẩm Con chó Bấc
Giắc-Lân-đơn đã thể hiện những khám phá tinh tế, sắc sảo khi miêu tả sự chuyển đổi tâm trạng của con chó Bấc. Xét ở một bình diện khác, chúng ta dễ dàng nhận thấy ở chính tác giả cũng có những tình cảm yêu thương loài vật đặc biệt. Ông chuyển những tình cảm ấy, những nhận xét ấy vào thế giới nhân vật của mình. Từ đó ông tạo ra một dạng ngụ ngôn hiện đại, có giá trị thức tỉnh nhiều mặt. Bởi vì nói đến thế giới loài vật, mượn thế giới loài vật cũng chính là để nói tới thế giới con người. Khơi dậy tình cảm của con chó Bấc cũng chính là khơi dậy trong bản thân con người những tình cảm nhân văn cao thượng và chân chính. Từ đấy, thế giới sẽ trở nên đẹp đẽ hơn, mặt đất sẽ được phủ đầy tình thương, nhân ái bao la. Tình thương của con chó Bấc đối với Giôn Thoóc-tơn, người chủ của nó, chính là tiếng gọi nơi hoang dã tha thiết, đậm đà tình người, tiếng gọi đó hướng về những nơi không hoang dã với niềm mong mỏi: Con người hãy sống với nhau vị tha, nhân ái và cao thượng hơn. Chắc chắn đó cũng là lời nhắn gửi của Giắc-Lân-đơn nhân hậu.
(Theo Lê Nguyên Cẩn, trong Phân tích – bình giảng tác phẩm văn học nước ngoài (ở trường THCS))