Sơ đồ tư duy Chiếc lược ngà dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà Ngữ văn lớp 9 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 9.

685


A/ Tác giả Tác phẩm bài Chiếc lược ngà

I. Tác giả

- Nguyễn Quang Sáng (1932 – 2014) quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

- Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Sau 1954, Nguyễn Quang Sáng ra Bắc tập kết và bắt đầu viết văn. Những năm kháng chiến chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tiếp tục hoạt động cách mạng và viết văn.

- Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim, truyện ngắn. Con chim vàng anh (1957), Chiếc lược ngà (1966)…Tiểu thuyết: Đất lửa (1963), Kịch bản phim, Mùa gió chướng (1977), Cánh đồng hoang (1978), Mùa nước nổi (1986),…

- Đặc điểm phong cách nghệ thuật: Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của những số phận người dân Nam Bộ. Văn chương của ông hồn hậu, mang được hơi thở, phong cách lẫn khẩu khí, phong độ của người dân Nam Bộ.

II. Tìm hiểu chung tác phẩm

1. Thể loại: Truyện ngắn.

2. Hoàn cảnh sáng tác:

Truyện ngắn Chiếc lược ngà được viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt và được đưa vào tập truyện cùng tên.

3. Tóm tắt

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc bé Thu chưa đầy một tuổi. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông Sáu có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm ba em không còn giống với người cha trong bức ảnh chụp chung với má. Bé đối xử với cha như một người xa lạ. Phải đến khi được bà ngoại giảng giải, em nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tình cảm yêu thương con gái bé bỏng của mình vào việc làm cây lược bằng ngà voi để tặng cho con. Nhưng trong một trận càn, ông Sáu đã bị thương rất nặng và hi sinh. Trước lúc ra đi, ông kịp trao cây lược cho bác Ba và nhờ người bạn mang về cho con. Ông Ba nhiều lần đi tìm Thu nhưng không gặp. Tình cờ ông lại gặp Thu, bấy giờ đã là một cô giao liên dũng cảm, trong một lần ông cùng một đoàn cán bộ vượt qua quãng đường nguy hiểm ở rừng Đồng Tháp Mười. Ông đã trao cây lược và và cũng là trao tình cha con cho Thu.

4. Bố cục: 3 phần

- Phần 1: (Từ đầu đến… chị cũng không muốn bắt nó về): Ông Sáu trở về thăm nhà trong ba ngày nghỉ phép nhưng bé Thu không nhận ông là ba.

- Phần 2: (Tiếp theo đến… vừa nói vừa từ từ tuột xuống): Bé Thu nhận ra ba và cuộc chia tay của hai cha con.

- Phần 3 (Còn lại): Ông Sáu hi sinh ở chiến trường và chuyện chiếc lược ngà.

5. Giá trị nội dung

Truyện ngắn nói về tình cảm gia đình đặc biệt là tình cha con sâu nặng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh éo le

6. Giá trị nghệ thuật

Truyện kể theo điểm nhìn của bác Ba giúp tăng tính khách quan. Truyện thành công trong việc tạo dựng tình huống bất ngờ, tự nhiên và hợp lí, thành công nữa là miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc qua suy nghĩ, hành động và lời nói.

B.Sơ đồ tư duy bài Chiếc lược ngà

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý phân tích bài Chiếc lược ngà

1. Nhân vật bé Thu

* Hoàn cảnh gia đình bé Thu

- Đất nước có chiến tranh, ba đi kháng chiến suốt tám năm chưa được về, Thu chưa biết mặt ba, chưa được gọi tiếng “ba”. ⇒ Khao khát được gặp ba, được gọi một tiếng ba.

* Hình ảnh bé Thu

- Chừng tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ.

⇒ Một bé gái đáng yêu, dễ thương

- Thái độ và hành động của Thu khi chưa nhận ra ba:

+ Lần đầu gặp cha - Giật mình - Tròn mắt nhìn - Hoảng hốt, mặt tái đi, vụt chạy và kêu thét lên.

+ Động từ, tính từ miêu tả tâm lí.

⇒ Thu ngạc nhiên, bất ngờ, sợ hãi bởi em không nhận ra ba.

- Thái độ và hành động của Thu trong ba ngày ông Sáu được nghỉ phép;

+ Ông Sáu càng quan tâm, em càng đẩy ra.

+ Nói trổng: Vô ăn cơm, cơm chín rồi! Chắt nước giùm cái....

⇒ Kiên quyết không chịu gọi tiếng ba, không thừa nhận ông Sáu là cha mình.

- Thái độ và hành động của Thu trong bữa cơm đoàn tụ gia đình:

+ Hất trứng cá xuống - gắp lên - không khóc khi bố đánh - bỏ sang ngoại.

⇒ Hành động mạnh mẽ, cương quyết tưởng như vô lễ nhưng lại rất đáng thương.

⇒ Thái độ căm ghét cao độ người đàn ông lạ dám nhận là cha em.

⇒ Cô bé có cá tính mạnh mẽ, có tình yêu ba sâu sắc.

* Thái độ và hành động của Thu khi nhận ra cha (trong buổi sáng ông Sáu lên đường trở về đơn vị)

- Nguyên nhân giúp Thu nhận ra ba: bà ngoại đã giải thích về vết thẹo trên mặt ba nó. Thu nằm im, lăn lộn, thở dài như người lớn ⇒ Ân hận vì không nhận ra ba, vì đối xử tệ bạc với ba.

- Buổi sáng ông Sáu lên đường về đơn vị:

+ Đứng ở góc nhà, vẻ mặt buồn rầu, nhìn với vẻ nghĩ ngợi ⇒ Thái độ thay đổi, muốn nhận ba nhưng còn e ngại

+ Tình yêu của bé Thu đối với ba: Kêu thét lên “ba”; Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, ôm chặt lấy cổ ba nó; Nó hôn ba nó cùng khắp; Hai tay nó siết chặt, run run…

+ So sánh, miêu tả nội tâm nhân vật

 

⇒ Tình yêu ba, tiếng gọi ba cháy bỏng và mãnh liệt vỡ bung ra từ đáy lòng em.

⇒ Tình yêu ba mạnh mẽ, hối hả xen lẫn sự hối hận.

⇒ Cô bé ngây thơ, cá tính mạnh mẽ và có tình yêu ba sâu sắc.

2. Nhân vật ông Sáu

* Hoàn cảnh:

- Ông Sáu tham gia kháng chiến từ lúc Thu chưa đầy một tuổi.

- Suốt tám năm kháng chiến, ông chưa một lầm về thăm nhà, chỉ biết con qua tấm ảnh nhỏ.

⇒ Khao khát gặp con, được nghe con gọi tiếng ba.

* Lần đầu tiên gặp con:

Với lòng mong nhớ của anh…cổ anh

- Bước vội những bước dài, gọi con, khom người đưa tay đón chờ con ⇒ Hạnh phúc khi được gặp con, khao khát được ôm con và nghe con gọi tiếng ba.

- Mặt sầm lại, hai tay buông xuống như bị gãy ⇒ Ông Sáu thấy sự hụt hẫng, bất ngờ, buồn tủi.

* Trong ba ngày nghỉ phép:

- Ông chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con.

- Mong con gọi một tiếng “ba”.

⇒ Yêu thương con

- Khi con nói trổng: Vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười, ngồi im

⇒ Đau lòng, khao khát được nghe con gọi tiếng “ba”

- Ông gắp trứng cá để vào chén con ⇒ Quan tâm, chăm sóc con

- Anh đánh Thu vì anh thấy bất lực, vì anh quá yêu con mà con lại không nhận cha.

* Buổi sáng ông Sáu lên đường trở về đơn vị:

- Ông ôm con, hôn lên mái tóc con.

⇒ Đó là niềm sung sướng mà ông đã chờ đợi từ lâu, cảm động đến nghẹn ngào.

* Khi ông Sáu ở chiến trường:

- Ông nhớ con, ân hận vì đã đánh con.

- Tìm được khúc ngà, mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà.

- Thận trọng, tỉ mỉ, cố công như người thợ bạc.

- Khắc từng nét: Yêu nhớ tặng Thu con của ba ⇒ Cây lược là vật quý giá, nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách.

* Trong giờ phút hi sinh:

- Anh đưa tay vào túi, móc cây lược. Chỉ khi đồng đội nhận lời, anh mới nhắm mắt đi xuôi ⇒ Khao khát được ở mãi bên con.

⇒ Cây lược trở thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử – thứ tình cảm mà không bom đạn nào của kẻ thù có thể tàn phá được.

D. Bài văn phân tích Chiếc lược ngà

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ với rất nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch…Tác phẩm “Chiếc lược ngà” được nhà văn sáng tác năm 1966 tại chính chiến trường miền Nam trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Truyện thể hiện thật thấm thía, cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Qua thiên truyện, chúng ta thấy được tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật khắc họa miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật khéo léo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

Tác phẩm xoay quanh tình huống truyện éo le: ông Sáu sau tám năm xa nhà đi kháng chiến, ông được nghỉ ba ngày phép về thăm nhà, thăm con. Trước nỗi xúc động và tình cảm yêu mến của ông, bé Thu – đứa con gái ông yêu quý, mong nhớ suốt tám năm trời đã không nhận ra ông là ba. Ngày ông phải trả phép về đơn vị cũng chính là ngày con bé nhận ông là ba. Ở đơn vị, ông Sáu dồn tất cả tình yêu, nỗi nhớ, nỗi ân hận vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp trao cây lược cho con thì ông đã hi sinh trong một trận càn lớn của Mỹ. Từ tình huống truyện, tác phẩm đề cao, ngợi ca tình cha con sâu nặng, đồng thời tố cáo tội ác chiến tranh.

Ông Sáu được phép về thăm nhà, thăm con sau tám năm ròng xa cách, lòng nôn nao, mong ngóng được gặp con cháy rực trong lòng ông. Không đợi thuyền cập bến, ông Sáu đã “nhón chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng tạt ra” rồi “bước vội vàng với những bước dài”, miệng “kêu to tên con, vừa bước vừa khom người đưa tay đón chờ con”. “Anh không kìm nổi nỗi xúc động” khi gặp lại con, vết sẹo dài bên má lại đỏ ửng, giần giật trông dễ sợ. Giọng lắp bắp, run run: “Ba đây con! Ba đây con!”. Thế nhưng, trái lại với tình cảm đó của ông, bé Thu lại cảm thấy sợ hãi, giật mình tròn xoe mắt, bỏ chạy rồi thất thanh gọi Má, má. “Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Tâm trạng ông Sáu đau khổ tột cùng, ông mong ngóng được con chạy lại ôm mình nhưng đứa con bé bỏng, ngây thơ lại xa lánh, hoảng sợ khiến ông hụt hẫng, đau đớn và thất vọng.

Trong ba ngày được nghỉ phép ở nhà, ông Sáu tìm đủ mọi cách để được gần gũi con bé, nhưng dường như mọi sự cố gắng ấy đều trở nên thất bại. Bé Thu càng trở nên ngờ vực, sợ hãi. Khi mẹ bảo mời cha vào ăn cơm, bé vẫn nhất quyết không gọi ba mà lại nói trổng “vô ăn cơm”, “cơm chín rồi”. Ngay cả khi bé bị ép vào đường cùng là chắt nước nồi cơm, dù loay hoay không biết phải xử lý thế nào, nó cũng chẳng chịu gọi. Bé ướng bướng tới mức, chú Ba cũng phải thở dài “con bé đáo để thật” hay trong bữa ăn khi gắp miếng trứng cá vào chén nó, nó lấy đũa soi vào trong chén rồi bất thần hắt cả miếng trứng cá ra khỏi chén, bắn tung tóe ra ngoài mâm, ông Sáu tức giận không kiềm chế được cảm xúc đã đánh con và bất lực mà thét lên “sao mày cứng đầu quá vậy!”. Dường như ông khao khát có được tình cảm của con bao nhiêu thì con bé lại hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm vồ vập của cha bấy nhiêu. Ông càng muốn xích gần nó, nó lại càng lùi xa; ông càng chiều thương nó, nó lại càng lẩn tránh; ông càng mong được nghe tiếng ba thì nó lại càng không gọi. Ông kiên nhẫn, đợi chờ tình cảm của con “suốt mấy ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”, “anh quay lại nhìn con vừa khẽ lắc đầu, vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được nên anh phải cười vậy thôi”.

Tuy nhiên, thái độ bướng bỉnh, ương ngạnh đó của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Bởi đơn giản là vì bé thấy người cha của hiện tại trước mắt khác với tấm hình chụp chung với má của bé quá. Vả lại Thu còn quá bé bỏng để có thể thấu hiểu được sự khắc nghiệt của cuộc sống, của chiến tranh và người lớn cũng chưa kịp giải thích cho bé hiểu nên bé không tin là người có vết sẹo trên mặt kia là ba của mình. Đồng thời, điều đó cũng chứng tỏ tình cảm sâu sắc của bé dành cho ba. Bé chỉ yêu, chỉ nhận ba khi biết chính xác đó là ba của bé mà thôi. Vì thế, sau khi ngủ một đêm bên nhà bà ngoại, được ngoại giải thích về nguyên nhân vết sẹo trên má của ba, bé Thu cảm thấy khó chịu, cả đêm lăn lóc không ngủ, xen lẫn niềm ân hận, khi đã đối xử với ba không tốt. Buổi sáng chia tay ấy, trước lúc ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé khác hoàn toàn mọi khi: “nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”. Khi đối diện với ông Sáu, đôi mắt của con bé bỗng xôn xao, “tình cảm cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó”, “nó kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Sự khao khát tình cảm cha bị kìm nén suốt mấy năm, nay bỗng bật lên xé tan cả sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, “nghe thật xót xa”. Thế rồi, nó vừa kêu, vừa chạy tới, nhanh như một con sóc, “nó chạy thót lên và dang hai tay ôm lấy cổ ba nó”. Sự xúc động ngẹn ngào đã khiến “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Nó hôn khắp người ông Sáu, “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Sợ cha đi mất, “chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân câu lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên, vừa khóc vừa không cho cha đi. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của tình cha con ấm áp, của sự hạnh phúc vỡ òa khi nhận ra cha sau tám năm xa cách, lại vừa xen lẫn cả sự ăn năn, hối hận vì không kịp nhận ra cha sớm hơn chút nữa… Chứng kiến cảnh ngộ ấy, có người đã không cầm được nước mắt, còn bác Ba thì cảm thấy như có bàn tay nắm lấy trái tim mình mà bóp thắt lại…Qua thái độ và hành động của bé Thu trước và sau khi nhận ra ông Sáu là cha mình, người đọc thấy được đằng sau sự hồn nhiên, ngây thơ và cứng đầu, bướng bỉnh của bé là tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt, thiêng liêng. Đồng thời, người đọc cũng thấy được Nguyễn Quang Sáng là nhà văn rất am hiểu tâm lí và yêu thích trẻ thơ nên mới có những trang văn thật sinh động và cảm động về tình cha con đến như vậy!

Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiên. Về tới chiến khu, ông Sáu cảm thấy day dứt, ân hận vì đã nóng giận đánh con. Ông dồn tất cả tình thương, nỗi nhớ con bằng việc làm một cây lược ngà – lời hứa với con trước lúc chia tay. Kiếm được khúc ngà voi, ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”, rồi dành hết tâm trí, tình cảm vào làm một cây lược. “Anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Từng chiếc răng lược dần hiện ra là từng niềm vui của ông. Bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Bao nhiêu bụi ngà rơi là bấy nhiêu tình cảm ông dành cho con. Trên sống lưng lược, ông còn gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Bao trìu mến thân thương toát lên từ hai chữ “Yêu nhớ”, bao nồng nàn, thấm đẫm nhớ nhung, yêu thương con của ông Sáu ẩn chứa trong những chữ “Thu con của ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh.” Có cây lược, ông càng mong được gặp con để trao tận tay cho nó nhưng éo le thay, chiến tranh đã vô tình cướp đi của ông giây phút vui mừng trao cho con cây lược.

Giây phút cuối, tình cảm cha con trong ông vẫn da diết, trước lúc nhắm mắt, dòng suy tưởng của ông vẫn nhớ về con mình. Trút hơi thở cuối cùng, ông Sáu chỉ kịp gửi lại chiếc lược ngà cho đồng đội. Lần đầu tiên một người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình dù chỉ sáng tạo một sản phẩm duy nhất - chiếc lược ngà. Người mất nhưng kỷ vật còn. Chiếc lược ngà là gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, nó vẫn còn mãi, là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử không bao giờ chết được.

Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, bất ngờ qua đó thể hiện chủ đề của tác phẩm. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc, phù hợp với lứa tuổi. Lối kể chuyện chân thực, tự nhiên, giàu cảm xúc. Hình ảnh giản dị, mà giàu giá trị, ý nghĩa biểu tượng, kết tinh trong hình tượng chiếc lược ngà. Ngôn ngữ đậm giản dị, đậm chất Nam Bộ.

Truyện Chiếc lược ngà là bài ca đẹp về tình cha con. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và càng ngời sáng. Truyện không chỉ nói lên tình cảm cha con thắm thiết sâu nặng mà còn gợi cho ta suy nghĩ thấm thía về những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh gieo rắc cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Ta càng thấm thía rằng tình cảm gia đình là sức mạnh, niềm tin để con người có thể vượt qua tất cả, ngay cả cái chết. Ta hiểu “Nếu trên đời có những nguồn vui chân chính và niềm hạnh phúc thật sự, thì nó sẽ nằm trong tổ ấm gia đình”.

E. Một số lời bình về tác phẩm Chiếc lược ngà

1. Nguyễn Quang Sáng nói về việc sáng tác truyện ngắn Chiếc lược ngà:

Năm 1966, tôi từ miền Bắc trở về miền Nam. Vùng Đồng Tháp Mười mênh mông nước trắng. Tôi đi ghe vào sâu trong rừng và sống ở một nhà sàn treo trên ngọn cây. Lúc đó, đoàn giao liên dẫn đường toàn là nữ. Tôi rất có ấn tượng với câu chuyện của một cô gái giao liên có chiếc lược ngà trắng. Sau khi nghe cô kể chuyện, tôi ngồi viết một ngày, một đêm là hoàn thành tác phẩm này.

Bài viết liên quan

685