Sơ đồ tư duy Mã Giám Sinh mua Kiều dễ nhớ, ngắn gọn
Sơ đồ tư duy bài Mã Giám Sinh mua Kiều Ngữ văn lớp 9 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 9.
A/ Tác giả Tác phẩm bài Mã Giam Sinh mua Kiều
I. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Thể loại: Truyện thơ Nôm + Thể thơ: lục bát
2. Xuất xứ
- Nằm ở đoạn đầu của phần hai trong “Truyện Kiều” (Gia biến và lưu lạc).
3. Bố cục: 3 phần:
- Phần 1: (10 câu đầu): Chân dung Mã Giám Sinh qua ngoại hình, hành động.
- Phần 2: (6 câu tiếp): Nỗi đau đớn tủi nhục của Kiều.
- Phần 3: (10 câu cuối): Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh.
4. Giá trị nội dung
Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một bức tranh hiện thực về xã hội đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trên cả hai phương diện: Phơi bày bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh, vừa lên án các thế lực xấu xa, tàn bạo vừa thương cảm, xót xa trước sắc đẹp, tài năng, nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp.
5. Giá trị nghệ thuật
Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” còn cho thấy tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du: miêu tả nhân vật phản diện bằng ngòi bút hiện thực, khắc hoạ tính cách nhân vật qua diện mạo, cử chỉ (khác với nhân vật chính diện bằng bút pháp ước lệ lý tưởng hoá nhân vật).
B.Sơ đồ tư duy bài Mã Giám Sinh mua Kiều
C. Dàn ý phân tích bài Mã Giám Sinh mua Kiều
1. Mã Giám Sinh: một kẻ xấu xa, giả dối, vô học
a. Lai lịch bất minh
- Cái tên chung chung, không rõ ràng: Giám Sinh không phải là tên, đó là một từ để chỉ người học trò học Nho giáo thời xưa. Trong một vài thời đại nhất định, đây là một chức danh có thể mua được bằng tiền. Qua cái tên, ta không biết gì nhiều về nhân vật.
- Quê quán mập mờ, khuất tất. Nguyễn Du đã khéo léo vạch trần sự giả dối của Mã Giám Sinh, ông giới thiệu hắn là “viễn khách”.
⇒ Có sự mâu thuẫn trong lời nói của Mã Giám Sinh và lời giới thiệu của mụ mối, “viễn khách” mà sao “cũng gần”? Sự thật là Mã Giám Sinh đã dối trá về quê quán của mình: quê Lâm Tri mà lại nói thành Lâm Thanh.
⇒ Ở Mã Giám Sinh, những thông tin ban đầu, cơ bản nhất về một con người như tên tuổi, quê quán đều có dấu hiệu bất minh, dối trá. Đây không phải là một con người đáng tin cậy.
b. Lời nói xấc xược
- Nguyễn Du tiếp tục, một cách khéo léo, hé lộ bản chất vô học của Mã Giám Sinh qua những câu trả lời của hắn:
+ Nhịp thơ ngắn, chia nhỏ nhiều lần (2/1/3, 2/1/3/2) kết hợp với điệp cấu trúc “Hỏi… rằng…” cho người đọc hình dung được cách thức trả lời các câu hỏi của Mã Giám Sinh, nhát ngừng, cộc lốc.
+ Câu trả lời của Mã Giám Sinh thể hiện rõ sự bất kính: Không thưa gửi, nói trống không thể hiện sự vô văn hóa trong giao tiếp với người bề trên.
c. Ngoại hình bảnh bao, chải chuốt
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
+ Hai câu thơ có sự tương phản: câu lục hoàn toàn là từ Hán Việt; câu bát hoàn toàn là từ thuần Việt. Câu lục có sắc thái trang trọng. Câu bát có sắc thái bình dị. Ở đây, Nguyễn Du chủ ý tô đậm sự tương phản giữa tuổi tác của Mã Giám Sinh (trạc ngoài bốn mươi) và vẻ bên ngoài không phù hợp với với độ tuổi ấy.
+ Đây chính là thủ pháp nâng và hạ của trào phúng: Dùng cái trang trọng để nói về độ tuổi, để bóc trần vẻ ngoài lố lăng, không phù hợp, cái trang trọng cần có của độ tuổi càng được tô đậm, thì cái lố bịch của ngoại hình càng hiện lên đậm nét.
+ Vẻ ngoài của Mã Giám Sinh là ngoại hình bảnh bao, chải chuốt, cố làm cho trẻ hơn độ tuổi: “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Mày râu chính là một chuẩn mực thẩm mỹ của người xưa khi đánh giá một người đàn ông. Theo chuẩn mực thẩm mĩ người xưa, mày râu của người đàn ông chính là biểu tượng cho nhân, nghĩa là dấu hiệu của bậc đại trượng phu. Nguyễn Du tả Từ Hải, một đấng anh hùng là “Râu hùm, hàm én, mày ngài”. Mã Giám Sinh đối lập hoàn toàn với tất cả chuẩn mực ấy, mày râu nhẵn nhụi (trong quan niệm của người xưa) là dung mạo của kẻ tiểu nhân, không đàng hoàng.
d. Hành động vô phép
- Bản chất vô lại, lố lăng của Mã Giám Sinh được thể hiện cụ thể nhất qua hành động của hắn.
+ Đầu tiên, Nguyễn Du tả: “Trước thầy sau tớ lao xao”. Từ láy “lao xao” tạo cảm giác nhốn nháo, mất trật tự, vô kỷ luật, hoàn toàn không phù hợp với sự trang nghiêm, lịch sự cần có của một buổi lễ vấn danh.
+ Kế tới, Nguyễn Du để cho họ Mã “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, thể hiện đỉnh cao của sự vô phép. Phó từ “tót” đặc tả tư thế ngồi của Mã Giám Sinh, cộc cằn, ngang ngược. Nguyễn Du đã nhận xét rất xác đáng về hành động này: “sỗ sàng”. Đây là sự thiếu lịch sự, vô phép tắc của một kẻ vô học. Ngoài ra, đó còn là thái độ khinh người của một kẻ cậy tiền.
⇒ Nhận xét:
- Bằng bút pháp tả thực, Nguyễn Du đã khéo léo từng bước bóc trần bản chất vô lại của Mã Giám Sinh, từ thông tin cơ bản cho đến diện mạo, lời nói, hành động. Hai chữ Giám Sinh chỉ là cái mác vô nghĩa: Đó không phải là thái độ, hành động của người có học, càng không phải là thái độ, hành động của một người đến làm lễ vấn danh.
2. Mã Giám Sinh: một kẻ buôn người
- Từ việc lột trần cái mác Giám Sinh, Nguyễn Du còn tiến đến một bước cao hơn trong việc xây dựng nhân vật: làm bật lên bản chất con buôn của Mã Giám Sinh. Mã Giám Sinh chính là hạng người đồi bại trong xã hội xưa, sống bám vào các kĩ viện, lừa các cô gái lương thiện vào chốn thanh lâu để chúng chuộc lợi về bọn “buôn thịt bán người”.
a) Tâm lý con buôn
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu
- Vẻ ngoài, việc người con gái trình diễn tài nghệ của mình cho người đến xem mắt là rất bình thường. Nhưng Nguyễn Du đã khéo léo chỉ ra cho người đọc, đây thực chất là một cuộc buôn bán, thông qua từ chỉ hành động của con buôn: “cân”, “ép”, “thử”. Tâm lý con buôn cũng được thể hiện rất sắc sảo: “Đắn đo” - “bằng lòng” – tùy cơ dặt dìu” ⇒ Chọn lựa kĩ càng, suy tính lợi nhuận.
b) Lời nói con buôn
- Mã Giám Sinh học đòi nói những lời lẽ rất hoa mỹ, bóng bảy:
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều”
Sinh nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?
Nhưng tiềm thức của một con buôn vẫn hiện trên con chữ. Chữ “mua” và “bao nhiêu” đã tố cáo hắn. Lời lẽ hoa mỹ thực chất chỉ là một lời hỏi giá.
c) Hành động con buôn
- Và cuối cùng là việc mặc cả:
+ Từ láy “cò kè” đã cho thấy bản tình bần tiện, chuộc lợi của Mã Giám Sinh.
+ Nhịp thơ ngắn: 2/2/2 (hoặc 1/1/1/1/1/1) tạo cảm giác thời gian kéo dài, mệt mỏi, chán chường. Cuộc ngã giá càng kéo dài, nhân phẩm của Kiều càng bị chà đạp, giá trị của Kiều càng bị xúc phạm.
D. Bài văn phân tích Mã Giám Sinh mua Kiều
Người ta đã nói nhiều về tài miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều, dù là nhân vật chính diện hay phản diện đều rất sinh động. Chỉ bằng một vài nét chấm phá nhân vật của ông hiện ra trước mắt người đọc một cách cụ thể cả ngoại hình lẫn nội tâm. Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã phần nào chứng minh tài năng miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Chân tướng tên buôn thịt bán người Mã Giám Sinh cứ lộ dần qua màn kịch ngắn này.
Đoạn “Mã Giám Sinh mua Kiều” dài 34 câu, trích trong “Truyện Kiều” từ câu 618-652. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: “Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha”. Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu “trâm gãy bình tan”.
Mã Giám Sinh xuất hiện với tư cách là một “viễn khách". “Viễn khách" là người khách từ phương xa đến. Ngay từ đầu người khách từ phương xa đến này đã có một chút đáng ngờ:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh’’
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Khách tự giới thiệu mình là kẻ sĩ - từng theo học ở trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai chữ “rằng” nối tiếp nhau xuất hiện biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của “viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô thiển, khiếm nhã.
Chân tướng Mã Giám Sinh bộc lộ dần qua cách Nguyễn Du miêu tả ngoại hình của y:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
“Trạc ngoại tứ tuần” là đã ngoài bốn mươi tuổi. Thời bấy giờ là ở vào tuổi không còn trẻ nữa, thế mà y vẫn “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao". Tác giả cố ý làm nổi bật mâu thuẫn giữa tuổi tác và cách tỉa tót, chải chuốt, cách ăn diện quá mức của y. Những từ “nhẵn nhụi', “bảnh bao” không chỉ thể hiện được vẻ kệch cỡm của Mã Giám Sinh mà còn kín đáo bộc lộ thái độ châm biếm của Nguyễn Du. Cách ăn mặc “bảnh bao" của y càng chứng tỏ y chẳng phải là một sinh viên trường Quốc Tử Giám hào hoa phong nhã. Hình như y đang cố che đậy một điều gì, qua cách tỉa tót, chải chuốt và ăn diện quá mức ấy. Nhưng dù cố che đậy, bản chất vỏ bọc của y vẫn cứ lòi ra:
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
“Trước thầy sau tớ” có vẻ rất đàng hoàng, trịnh trọng, nhưng sao lại “lao xao”? “Lao xao'” là ồn ào, lộn xộn mất trật tự. Cả tớ lẫn thầy đều chẳng giữ ý tứ khi vào nhà Vương ông. Vừa vào đến nơi Mã Giám Sinh đã “ngồi tót” ở “ghế trên” một cách “sỗ sàng”. Động tác ngồi của y càng chứng tỏ y là kẻ vô học trịch thượng hợm hĩnh. Một người thực sự là sinh viên trường Quốc Tử Giám ít nhất phải thanh nhã như Kim Trọng, đi đứng, ăn nói từ tốn, lịch sự như Kim Trọng:
Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Mã Giám Sinh hoàn toàn ngược lại: y nói năng cộc lốc, ăn mặc kệch cỡm, đi đứng láo nháo, hợm hĩnh,... Tất cả đã cho ta hiểu con người của y. Nguyễn Du không dừng lại ở đó, ông còn tiếp tục lột trần chân tướng Mã Giám Sinh. Trước “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” của Kiều, y chẳng một chút động lòng trắc ẩn. Ngược lại y còn bắt Kiều làm thơ, gảy đàn để y “đắn đo cân sắc cân tài”. Sau đó y mặc cả, y xem Kiều chỉ là món hàng không hơn không kém. Đầu tiên y còn làm bộ là người có chữ. Sau đó y lộ nguyên hình là một tên “buôn thịt bán người” sành sỏi:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Từ “đáng giá nghìn vàng” y “cò kè" thêm, bớt chỉ còn “bốn trăm”. Nghĩa là chưa được một nửa... Vậy là cuộc ngã giá đầy căng thẳng giữa mụ mối và tên buôn Mã Giám Sinh đã diễn ra. Đến đây, Mã Giám Sinh thể hiện rõ bản chất của một con buôn nhưng đầu tiên hắn ta vẫn cố khoác lên mình cái vẻ trí thức đầy giả tạo “Rằng mua ngọc đến Lam Kiều” nhưng cũng chỉ ngay sau đó thôi thì bản chất con buôn cũng được thể hiện ra rõ mồn một, với sự sành sỏi vốn có, hắn ta đã cò kè “bớt một thêm hai” và cuối cùng thì sự lọc lõi ấy đã mang lại cho hắn ta một món hời khi trả giá từ “ngàn vàng” xuống còn “ngoài bốn trăm”:
Định ngày nạp thái vu quy,
Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!
Tính cách con buôn lừa đảo, giả dối, xảo trá, kệch cỡm của Mã Giám Sinh được Nguyễn Du khắc họa khá cụ thể và sinh động. Tính cách đó được thể hiện chủ yếu qua việc miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ và hành động nhân vật. Bằng những từ ngữ chọn lọc có sức gợi, sức biểu cảm cao, Nguyễn Du vừa lột trần được bản chất xấu xa của tên buôn thịt bán người họ Mã vừa bộc lộ thái độ châm biếm khinh ghét của mình đối với hạng người bịp bợm, hợm hĩnh, thô lỗ ấy. Chỉ qua màn kịch ngắn này, chúng ta cũng hiểu phần nào tài năng miêu tả nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du.
Vẫn bút pháp ước lệ quen thuộc của Nguyễn Du khi tả những nhân vật chính diện mà ông yêu mến: lệ hoa, cúc, mai… vẻ đẹp của Kiều lúc bình thường đã khiến hoa ghen, liễu hờn, nghiêng nước nghiêng thành, thì lúc này, trong cơn đau khổ đến tột cùng, nàng vẫn đẹp – vẻ đẹp làm thổn thức lòng người. Nghệ thuật đối rất chỉnh đã được nhà thơ khai thác triệt để trong những dòng thơ tả Kiều. Tình cảm chân thành của tác giả đã phá vỡ tính khuôn sáo của bút pháp cổ điển và đem lại xúc động thực sự cho người đọc. Chúng ta thương Thúy Kiều và càng căm thù cái xã hội phong kiến thối nát đã làm tan nát gia đình nàng, đẩy nàng vào chôn đoạn trường đầy chông gai, bão tố.
E. Một số lời bình về tác phẩm Mã Giám Sinh mua Kiều
1. Trong toàn bộ khổ thơ, Nguyễn Du đã đối lập sự câm lặng, khổ đau của Thúy Kiều với sự hoạt động năng nổ, của bọn buôn người, đối lập giữa giá trị đẹp đẽ vô song của Thúy Kiều với giá cả mua bán chua xót “Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm” . Tiếng nói quyết định và lạnh lùng của đồng tiền hôi tanh khép lại màn kịch giải quyết tai họa gia đình, để mở ra một tai họa khác cho cô gái họ Vương.
(Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều)