Sơ đồ tư duy bài thơ Đồng chí dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Đồng chí Ngữ văn lớp 9 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 9.

1166


A/ Tác giả Tác phẩm bài Đồng chí

I. Tác giả

- Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở Hà Tĩnh.

- Từng tham gia kháng chiến chống Pháp và Mĩ.

- Làm thơ từ năm 1947. Thơ chuyên viết về người lính và chiến tranh, cô động, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ được chắt lọc.

II. Tìm hiểu chung về tác phẩm

1. Thể loại, phương thức biểu đạt chính

Thể loại: Thơ tự do

Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm

2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

Xuất xứ: Bài thơ , in trong “Đầu súng trăng treo” (1966).

Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được sáng tác năm 1948, sau khi tác giả cùng đơn vị tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông năm 1947, tại nơi Chính Hữu phải nằm điều trị bệnh.

3. Chủ đề

- Người lính trong cuộc kháng chiếng chống Pháp

4. Bố cục: 3 phần

   + 7 câu đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí.

   + 10 dòng tiếp: Biểu hiện tình đồng chí

   + 3 dòng cuối: Biểu tượng giàu chất thơ về tình đồng chí.

5. Giá trị nội dung

- Bài thơ ngợi ca tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn giữa lửa đạn chiến tranh, đồng thời khắc họa những khó khăn thiếu thốn của cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ.

6. Giá trị nghệ thuật

- Bài thơ thành công về nghệ thuật bởi thể thơ tự do linh hoạt, các chi tiết, hình ảnh được sử dụng mang tính tiêu biểu, chân thực, ngôn ngữ cô đọng, giản dị và giàu sức biểu cảm.

B.Sơ đồ tư duy bài Đồng chí

Hỏi đáp VietJack

 

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý phân tích bài Đồng chí

1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất nhiều các tác giả tiêu biểu.

- Khái lược nét riêng độc đáo của Chính Hữu và Đồng chí - một bài thơ viết theo đề tài người lính: Chính Hữu xuất hiện trên thi đàn với phong cách thơ bình dị. Bài thơ Đồng chí tuy vẫn đi vào đề tài người lính nhưng đã vượt qua tất cả những xáo mòn để mang đến những cảm xúc rất chân thực về tình đồng chí nơi trái tim.

2. Thân bài

a. 7 câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí

- Cùng chung hoàn cảnh xuất thân, chung nghèo khó (2 câu đầu)

   + Xuất thân từ ngư dân miền biển (nước mặn đồng chua) và nông dân (đất cày lên sỏi đá)

   + Hoàn cảnh khó khăn, vất vả, nghèo khó

⇒ Sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở cho sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.

- Cùng chung lí tưởng, mục đích chiến đấu

   + “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” : Tình đồng chí nảy nở và bền chặt khi họ chia sẻ với nhau những khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ.

   + “đêm rét chung chăn” -> chia sẻ những gian khó, thiếu thốn nơi chiến trường,

   + “tri kỉ” : người bạn tâm giao, hiểu rõ về nhau

   + Hai tiếng “Đồng chí!” là kết tinh của một tình cảm cách mạng cao đẹp: tình đồng chí.

b. 10 câu thơ tiếp: Những biểu hiện cụ thể vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí đồng đội

- Thấu hiểu tâm tư, nỗi lòng của nhau, biết rõ những tâm sự thầm kín.

   + Họ hiểu về hoàn cảnh ra đi của nhau: bỏ lại sau lưng những gì bình dị, thân thuộc nhất, những gì đã gắn bó với họ từ lúc chào đời: “ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa”.

   + Họ cùng nhau xác định lí tưởng: ra đi để bảo vệ những gì thân thương nhất, thái độ dứt khoát ra đi thể hiện quyết tâm chiến đấu

⇒ Tình cảm đồng chí thân thiết, họ chia sẻ với nhua những gì riêng tư, thân thuộc nhất của họ

- Cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn trong đời lính

   + Họ thương nhau khi phải trải qua những cơn sốt rét: “sốt run người”

   + Họ chia sẻ cho nhau, cùng nhau trải qua những thiếu thốn về vật chất trong cuộc sống hằng ngày: “Áo anh rách vai...không giày”:

   + Cùng gắn bó với nhau: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”: họ nắm tay nhau để sẻ chia, truyền hơi ấm, để hi vọng, để quyết tâm ⇒ Cử chỉ cảm động chan chứa tình cảm chân thành

c. 3 câu cuối: Biểu tượng giàu chất thơ tình đồng chí

- Luôn sắt cánh bên nhau, chủ động thực hiện nhiệm vụ cao cả:

   + Hoàn cảnh: đêm, rừng hoang, sương muối ⇒ hoàn cảnh khắc nghiệt

   + “đứng cạnh bên nhau” : sát chánh chiến đấu, gắn bó không tách rời.

   + Sẵn sàng “chờ giặc tới ” -> chủ động

- Câu cuối “Đầu súng trăng treo” : hình ảnh thực trên chiến trường + biểu tượng đẹp, hình ảnh kết thúc đầy bất ngờ, độc đáo, điểm sáng của toàn bài, gợi liên tưởng thú vị. Biểu tượng:

   + “Súng” : biểu tượng của chiến tranh; chiến sĩ

   + “trăng” : biểu tượng cho thiên nhiên trong mát, cho hòa bình; thi sĩ

⇒ Sự hòa hợp giữa trăng và súng làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính, vừa nói lên ý nghĩa của việc họ cầm súng chiến đấu là bảo vệ cho cuộc sống thanh bình nơi quê hương ⇒ Tình đồng chí của họ càng thêm cao cả và ý nghĩa bội phần

3. Kết bài

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu, đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ Đồng chí: thể thơ tự do, ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực

- Bài thơ là lời tuyên bố chân thực nhất, bình dị nhất nhưng lại sâu sắc và thiêng liêng nhất về tình đồng chí đồng đội trong hoàn cảnh khó khăn tột cùng

D. Bài văn phân tích bài Đồng chí

Chính Hữu là một nhà thơ trưởng thành trong cuộc khánh chiến chống Pháp. Ông thường viết về đề tài người lính và chiến tranh. Thơ ông không nhiều, nhưng có những bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, hình ảnh thơ chọn lọc. Tiêu biểu trong số đó là bài thơ “Đồng chí”, viết năm 1948, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt. Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính cách mạng, đồng thời ca ngợi tình đồng chí gắn bó keo sơn trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Với giọng giản dị, nhẹ nhàng, ngay từ đầu bài thơ Chính Hữu nói về cơ sở hình thành tình đồng chí. Họ được gặp nhau ở nơi chiến trường bởi họ có chung hoàn cảnh xuất thân.

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nha

Tác giả sử dụng cấu trúc thơ song hành và vận dụng thành ngữ để giới thiệu cho chúng ta biết về nguồn gốc xuất thân của những người lính. Đó là vùng đất nghèo khó ven biển: “Nước mặn đồng chua” và miền trung du nghèo khó “đất cày lên sỏi đá”. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình, gợi hình ảnh hai người lính đang kể chuyện cho nhau nghe về cái nghèo khó của quê hương mình. Mượn hình ảnh “anh và tôi” tác giả nhấn mạnh dù ở địa giới nào thì họ cũng có cùng chung xuất thân từ mảnh đất nghèo khó vất vả. Chính lý do đó khiến họ dễ đồng cảm sẻ chia với nhau hơn.

Những người lính ấy gặp nhau ở đây còn vì họ có chung mục đích lý tưởng chiến đấu:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu”

Chính vì Tổ quốc đang vẫy gọi nên họ sẵn sàng cầm súng lên để chiến đấu vì nhân dân, vì đất nước. Bằng phép tu từ hoán dụ và điệp ngữ trong câu thơ: “súng bên súng đầu sát bên đầu” nhà thơ đã mang lại cho câu thơ hai ý nghĩa, vừa mang ý nghĩa tả thực lại có tính biểu tượng. Câu thơ như gợi ra cho người đọc hình ảnh hai người lính đang trong tư thế sẵn sàng chờ giặc tới. Họ luôn sát cánh bên nhau trọng mọi khó khăn nguy hiểm. Nhiệm vụ chiến đấu của những người lính là đánh đuổi quân xâm lược, để đất nước độc lập tự do. Những người lính ấy trung thành đi theo con đường cách mạng mà Bác đã chọn.

Không chỉ vậy, họ còn chung cả những khó khăn gian khổ:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Cái rét của núi rừng Việt Bắc là cái rét cắt da, cắt thịt, nhưng do nước ta còn nghèo nên những anh bộ đội cũng không được trang bị đầy đủ quân tư trang. Đó là khó khăn chung của người chiến sĩ cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Và chính cái sự khó khăn đó như một cái cớ để những người lính sát lại gần nhau hơn. Chính Hữu thật khéo léo khi sử dụng từ “đôi” để diễn tả sự gắn bó, không thể tách rời của những người đồng chí. Càng khó khăn gian khổ, họ càng gắn bó keo sơn, để rồi trở thành "tri kỉ" của nhau. Họ thấu hiểu nhau, thân thiết như anh em một nhà. Những chiếc chăn kia có thể thô sơ mỏng manh nhưng lại vô cùng ấm áp bởi tình yêu thương, sự sẻ chia giữa những người đồng đội. Để rồi tựu chung lại những tình cảm quý giá đó họ gọi nhau bằng cái tên “Đồng chí!”. Câu thơ được cấu tạo vô cùng độc đáo chỉ có một từ gồm hai tiếng đi liền với dấu chấm cảm. Đó như một lời khẳng định đây là tình cảm thiêng liêng cao đẹp. Câu thơ ấy cũng chính là bản lề của hai đoạn thơ, khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí.

Là đồng chí, đồng đội của nhau tức là họ cùng nhau chia sẻ thấu hiểu tâm tư nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Đối với những người nông dân chắc hẳn ruộng nương, gian nhà là tài sản quý giá nhất, là ước mơ cả đời của họ. Vậy mà những người lính ấy đã bỏ lại những thân thiết, quý giá sau lưng để lên đường cứu nước. Từ “mặc kệ” như một lời khẳng định ý chí quyết tâm của người lính, họ tạm gác lại việc cá nhân để thực hiện lý tưởng cách mạng của mình. Hình ảnh người lính trong câu thơ trên khiến chúng ta liên tưởng tới hình ảnh người lính trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng, lá vàng rơi”

Người lính hiểu rằng những người như họ đều phải rời xa quê hương, gia đình nhỏ bé của mình để chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc. Câu thơ: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” sử dụng cùng lúc phép nhân hóa và phép hoán dụ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” chính là biểu tượng của làng quê Việt Nam, nơi người lính sinh ra lớn lên, nơi chứa đựng tiếng cười giòn giã của tuổi thơ, nơi e ấp lời hò hẹn của mối tình đầu. Khi người lính phải rời xa quê hương thì chính nơi ấy mong ngóng người lính trở về. Từ “nhớ” trong câu thơ diễn tả nỗi nhớ hai chiều: Không chỉ có quê hương mong ngóng người lính, mà người lính cũng đang nhung nhớ về quê hương. Đọc đến đây ta chợt nhớ đến câu ca dao:

“Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh dau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm xương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”

Từ nỗi nhớ chung là nỗi nhớ quê hương đã dần trở thành nỗi nhớ riêng về những người mẹ, người vợ, người em.. nơi chốn ấy và qua đó lại càng làm sâu sắc thêm tình đồng chí. Họ đã chia sẻ với nhau những nỗi nhớ sâu thẳm nơi trái tim, những điều tưởng chừng như thầm kín nhất.

Chưa dừng lại ở đó, Chính Hữu tiếp tục khắc họa những biểu hiện cao đẹp khác của tình đồng chí. Là đồng chí, họ còn chia sẻ với nhau những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

Cơn sốt rét đến khiến những người lính khổ sở, bị hành hạ bởi những cơn nóng toát hết mồ hôi, cơn lạnh phát run mà khi đắp bao nhiêu chăm cũng không đủ. Tác giả đã tái hiện và khai thác đúng những hiện thực đau thương của cuộc chiến. Có lẻ bởi chính ông cũng là một người lính nên mới có sự đồng cảm như vậy. Bằng phép liệt kê nhà thơ đã nói lên sự thiếu thốn ấy không của riêng ai mà là của tất cả mọi người: áo rách, quần vá, không giày… đứng làm nhiệm vụ trong lúc rét mướt. Cụm từ “anh với tôi” luôn đi với nhau như thể hiện sự gắn bó giữa những người đồng đội. Hình ảnh người lính lạc quan trong cảnh giá rét khiến chúng ta thật cảm động: “miệng cười buốt giá”. Người lính cụ Hồ luôn biết vượt lên khó khăn để xóa nhòa gian khổ, dùng cái lạc quan của mình để quên đi hiện thực khốc liệt hiện lên thật giản dị mà đẹp đẽ.

Hơn thế nữa, là đồng chí, những người lính còn biết đoàn kết yêu thương gắn bó với nhau:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Từ “thương nhau” được đặt ở đầu câu như nhấn mạnh tình cảm yêu thương gắn bó giữa những người lính. Cái nắm tay ấy như một lời động viên để truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh, niềm tin. Dù chỉ là một hành động nhỏ nhưng đủ để làm ấm lòng nhau.

Khép lại bài thơ chính là sức mạnh và biểu tượng của tình đồng chí

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Cả đoạn thơ là hình ảnh tả thực về công việc của người lính. Họ phải làm nhiệm vụ trong hoàn cảnh vô khắc nghiệt: Vào ban đêm, nơi rừng núi hoang sơ, có sương muối- thứ sương làm cỏ cây điêu tàn, kiệt quệ sức sống, làm tê tái da thịt con người. Giữa không gian âm u, rộng lớn mà họ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vẫn kề vai sát cánh trong một tư thế chủ động sẵn sàng không hề nao núng. Từ “chờ” được sử dụng rất hay, nó cho thấy tư thể vững vàng, tự tin chủ động của những người lính. Ôi! Câu thơ cuối cùng và có lẽ cũng là hình ảnh biểu tượng đẹp nhất trong bài vang lên “Đầu súng trăng treo”. Theo lời nhà thơ Chính Hữu kể lại, câu thơ trên chính là hình ảnh tả thực ông gặp trên đường hành quân. Những người lính trong lúc làm nhiệm vụ vầng trăng sáng trên bầu trời như treo trên đầu súng. Tuy nhiên, ý thơ trở nên thi vị khi nó được mang ý nghĩa biểu tượng. Súng và trăng đã nối hai sự vật ở khoảng cách xa nhau: mặt đất và bầu trời, tạo nên sự chuyển động lãng mạn. Súng - vật gắn liền với người chiến sĩ, là hình ảnh biểu tượng cho chiến tranh ác liệt, trăng – thường được các thi sĩ ngâm ngợi, là biểu tượng cho hòa bình hạnh phúc. Và hình ảnh “đầu súng trăng treo” còn là vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Giữa cái khốc liệt của chiến trường tâm hồn người lính vẫn bay bổng hòa nhịp với thiên nhiên, chất chiến sĩ và thi sĩ như hòa vào làm một. Câu thơ là nhãn tự của bài thơ có sức tỏa sáng cho toàn bài.

Toàn bộ bài thơ được làm bằng ngôn ngữ cô đọng và gợi tả; hình ảnh thơ gần gũi, thân thuộc nhưng có sức khái quát cao; biện pháp sóng đôi được sử dụng thành công… Qua đó Chính Hữu cho chúng ta thấy quá trình phát triển và trưởng thành của một quá trình cách mạng trong quân đội. Ở đây nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực kết hợp với tâm hồn lãng mạn, thi vị của mình. Chính những điều đó đã tạo nên thành công cho bài thơ.

Nói thơ là cảm xúc quả thực không sai. Bằng cảm xúc chân thực của mình, nhà thơ Chính Hữu đã ngợi ca tình đồng chí hết sức thiêng liêng. Tình đồng chí như một ngọn lửa cháy mãi không bao giờ tắt, xua tan nhọc nhằn trong những đêm chiến tranh. Qua bài thơ, chúng ta thêm yêu và tự hào về truyền thống đấu tranh của dân tộc với những người lính kiên cường và quả cảm.

E. Một số lời bình về tác phẩm Đồng chí

* Những dòng thơ cuối cùng như một tượng đài sừng sững cho tình cảm đồng chí thiêng liêng. Trên nền hùng vĩ của thiêng liêng, cánh rừng trải rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là một hình ảnh thực trong những đêm phục kích giặc của tác giả, những chính tầm cao tư tưởng và lí tưởng chiến đấu của quân độic cách mạng đã tạo cho hình ảnh đó một vẻ đẹp khái quát, tượng trưng.

(Vũ Nho, Để cảm hiểu và thưởng thức những bài thơ ở lớp 8 và lớp 9, 1991)

Bài viết liên quan

1166