Sơ đồ tư duy Bài thơ về tiểu đội xe không kính dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính Ngữ văn lớp 9 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 9.

1232


A/ Tác giả Tác phẩm bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính

I. Tác giả

- Phạm Tiến Duật (1941 - 2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

- Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước.

- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

- Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.

II. Tìm hiểu chung về tác phẩm

1. Thể loại, phương thức biểu đạt chính

Thể loại: Thơ 7 chữ kết hợp 8 chữ

Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm

2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

Xuất xứ: Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính thuộc chùm thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 - 1970, được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa, NXB Văn học, Hà Nội, 1970

Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được viết năm 1969, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra ác liệt, tác giả khi đó cũng là chiến sĩ ở Trường Sơn, gắn bó với những cung đường và những chiến sĩ lái xe quân sự.

3. Chủ đề

- Người lính trong cuộc kháng chiếng chống Mĩ

4. Bố cục

   + Khổ 1,2: Tư thế ra trận hiên ngang của người lính

   + Khổ 3,4,5,6: sự ngang tàng, dũng cảm, lạc quan của người lính và tình đồng đội thắm thiết.

 

   + Khổ 7: Lí tưởng, ý chí chiến đấu của những người lính

5. Giá trị nội dung

- Bài thơ khắc họa được nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính và hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi, lạc quan, quyết chiến đấu giải phóng miền Nam.

6. Giá trị nghệ thuật

- Bài thơ chủ yếu kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ, có chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, sáng tạo được những hình ảnh độc đáo, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.

B.Sơ đồ tư duy bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Hỏi đáp VietJack

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý phân tích bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính

1. Mở bài

- Giới thiệu những nét cơ bản về tác giả (tên, phong cách sáng tác/cuộc đời), tác phẩm (chủ đề/ hoàn cảnh sáng tác/ nội dung/ nghệ thuật).

- Nêu nhận xét, cảm nhận của bản thân

2. Thân bài

a. Nhan đề bài thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính

- Khá dài, tưởng như bị thừa (bài thơ)

- Làm nổi bật hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính -> hình ảnh thực.

- Cách tác giả khai thạc hiện thực nhẹ nhàng, đầy chất thơ

⇒ Gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc điệu thẩm mĩ riêng của bài thơ và gây ấn tượng cho người đọc.

b. Hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính vẫn băng băng ra chiến trường.

- Hình ảnh thực, thực đến trần trụi, không được “mĩ lệ hóa”.

- Nguyên nhân không kính: “Bom giật, bom rung” Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe bị phá hủy biến dạng đi

- Những chiếc xe không kính vốn không phải hiếm trong chiến tranh, nhưng hiếm trong thơ ca.

- Nghệ thuật: Giọng thơ lạc quan, tinh nghịch; ngôn ngữ thơ trúc trắc.

⇒ Hình ảnh tạo nên cái tứ lạ, độc đáo, vừa nói lên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu khốc liệt chống đế quốc Mĩ. Hình tượng này góp phần khắc họa một nét tư thế, chân dung của một dân tộc anh hùng.

c. Hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn

* Tư thế của họ thật ung dung, hiên ngang, tự hào ra chiến trường

- Hai câu sáu chữ nhịp 2/2/2 và chữ “ung dung” đảo lên đầu câu -> nổi bật tư thế ấy của người lính.

“Nhìn thẳng” là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh, không run sợ, né tránh.

- Cấu trúc “Không có kính, ừ thì… chưa cần…” lặp lại và những chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc”“cười ha ha, “lái trăm cây số nữa”

⇒ Hình ảnh họ vừa mang nét giản dị, phong trần, vừa có nét kiêu hùng, lãng mạn.

* Có tính cách sôi nổi, vui nhộn, lạc quan và rất gắn bó với đồng đội.

- Tiếng cười “ha ha” sảng khoái tự hào

- Chiến tranh khốc liệt đã tạo ra những tiểu đội xe không kính. Sự gắn bó của những con người đã cùng vượt qua bom đạn, thử thách càng bền chặt, sâu xa.

- Trên con đường Trường Sơn, họ càng đi càng gặp nhiều bè bạn: “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới”. Tình đồng đội đã hóa gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật “lính”, thạt tếu táo. Họ đã gắn bó với nhau trong chiến đấu và càng gắn bó với nhau trong đời thường.

- Điệp ngữ “lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Hình ảnh “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ.

* Có lòng yêu nước, có lí tưởng và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, có niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng.

- Điệp ngữ “không có”, lối nói liệt kê và nhịp thơ dồn dập như diễn tả những khó khăn chồng chất.

- Câu thơ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim” : nói về sức mạnh lớn lao của con người, sâu xa hơn là sức mạnh của tình yêu nước.

⇒ Nhận xét chung

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật.

- Nêu cảm nhận của bản thân

D. Bài văn phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Phạm Tiến Duật là một nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông đã rất thành công khi viết về thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” . Tác phẩm được sáng tác vào năm 1969, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ khắc họa được nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính và hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ hiên ngang, sôi nổi, lạc quan, có lí tưởng và niềm tin vào cuộc chiến giải phóng miền Nam.

Mỗi một tác phẩm nghệ thuật ra đời đều có tên gọi riêng. Thông qua nhan đề độc giả phần nào nắm được nội dung, tư tưởng của toàn bài. Nhan đề bài thơ: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” khá lạ, khá dài. Đã là một bài thơ mà trong nhan đề lại có chữ “bài thơ”. Mới nghe tưởng như là thừa nhưng thực ra cách tác giả đặt tên như vậy khiến đứa con tinh thần của mình trở thật độc đáo, thu hút sự chú ý. Nhan đề bài thơ làm nổi bật hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Ôi! Hai chữ “Bài thơ” cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, vượt lên mọi gian khổ, hiểm nguy. Đó cũng là quan niệm nghệ thuật của tác giả, khám phá chất thơ từ chính hiện thực tưởng như thô nhám đó. Cùng với đó, cụm từ: “Tiểu đội xe không kính” cũng là một cái tên tự đặt- rất lính, rất tếu hóm, rất ấn tượng. Đọc nhan đề bài thơ chúng ta cảm nhận được nhan đề này gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc điệu thẩm mĩ riêng của bài thơ và gây ấn tượng cho người đọc.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc họa một hình ảnh độc đáo nữa trong bài thơ. Đó là những chiếc xe không kính vẫn băng băng ra chiến trường. Thời ấy, hình ảnh những chiếc xe ô tô đi vào thơ ca còn hiếm. Xưa nay, hình ảnh xe cộ, tàu thuyền khi đi vào thơ ca thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng. Còn những chiếc xe không kính trong thơ Phạm Tiến Duật lại là hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Hai câu thơ mở đầu đậm chất văn xuôi, giọng thản nhiên, càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của xe. Đây là những chiếc xe đã đi qua bom đạn thử thách. Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe bị phá hủy biến dạng đi, trần trụi hơn nữa:

“ Không có kính, rồi xe không có đèn.

Không có mui xe, thùng xe có xước”.

Nhưng bộ não, linh hồn của xe dường như không phải là máy móc, mà là tấm lòng người chiến sĩ, nên:

“ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Những chiếc xe không kính vốn không phải hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm, có nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thơ, trở thành biểu tượng độc đáo của thơ thời chiến tranh chống Mĩ. Hình ảnh này tạo nên cái tứ lạ, độc đáo, vừa nói lên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu khốc liệt chống đế quốc Mĩ. Hình tượng này góp phần khắc họa một nét tư thế, chân dung của một dân tộc anh hùng.

Đặc biệt, hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong bài được khắc họa thành biểu tượng cho thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Chủ nhân của những chiếc xe không kính được miêu tả gắn liền với những chiếc xe và nổi bật lên trong bài thơ: can trường, quả cảm, bất chấp mọi gian nguy thiếu thốn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại như phép thử để làm lộ ra phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn- những người đã góp phần làm nên huyền thoại Trường Sơn một thời. Họ sống, chiến đầu với tinh thần phơi phới:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

(Phạm Tiến Duật)

Người lính hiện ra với những ấn tượng, cảm giác cụ thể khi ngồi trên xe không kính. Qua khung cửa xe không cón kính chắn gió với tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, người chiến sĩ lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như xa như ùa vào buồng lái”

Xe lao nhanh trên đường, gió làm mắt đắng, cái nhìn của người lái xe vẫn hút chặt vào con đường- con đường tiến lên phía trước, con đường chạy thẳng vào tim- con đường của trái tim. Cái “nhìn thấy” có cả sự sáng soi của lí tưởng, tình cảm. Không chỉ mặt đất mà cả bầu trời sao, cánh chim cũng như sa, như ùa vào buồng lá. Dường như cả thiên nhiên, sự vật cũng theo người lính ra chiến trường. Hình ảnh ấy thật thi vị, đó là chất thơ của cuộc chiến đấu. Hiện thực thì khốc liệt, mọi thứ có thể va đập, quăng quật vào buồng lái, nhưng người lính cảm nhận nó bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp. Những câu thơ trên miêu tả cảm giác rất thực của người lính nhưng cũng hé lộ diện mạo, tâm hồn thầm kín của họ.

Tuy nhiên, nổi bật lên vẫn là nét phẩm chất, tính cách cao đẹp của người lính. Trước hết, tác giả vẽ những người lính có tư thế thật ung dung, hiên ngang, tự hào ra chiến trường

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Hai câu sáu chữ nhịp 2/2/2 và chữ “ung dung” đảo lên đầu câu làm nổi bật tư thế ấy của người lính. Còn “Nhìn thẳng” là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất, không thẹn với đất trời, nhìn thẳng vào con đường phía trước, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh, không run sợ, né tránh. Những người chiến sĩ trẻ ấy có thái độ hiên ngang, bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy với tinh thần quả cảm

“Không có kính ừ thì có bụi”

“Không có kình ừ thì ướt áo”

Cấu trúc “Không có kính, ừ thì… chưa cần…” lặp lại và những chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha, “lái trăm cây số nữa” đã bộc lộ rõ cái ngang tàng, bất chấp gian khổ của người lính. Thực tế, gió, bụi, mưa… có thể gây bao khó khăn khi xe không có kính nhưng người lính đã bình thường hóa những cái không bình thường ấy, vượt lên tất cả sự cố gắng với tinh thần trách nhiệm rất cao. Hình ảnh họ vừa mang nét giản dị, phong trần, vừa có nét kiêu hùng, lãng mạn.

Tiếp theo là những nét phác họa của nhà thơ về tính cách của những người chiến sĩ trẻ. Họ có tính cách sôi nổi, vui nhộn, lạc quan và rất gắn bó với đồng đội. Cả bài thơ lấp lánh ánh cười và vang tiếng cười “ha ha” sảng khoái tự hào:

“Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Đó đúng là tiếng thơ, tiếng cười của tuổi trẻ, của tâm hồn lạc quan. Chiến tranh khốc liệt đã tạo ra những tiểu đội xe không kính. Sự gắn bó của những con người đã cùng vượt qua bom đạn, thử thách càng bền chặt, sâu xa. Họ gặp nhau là đã quen thân. Xe không kính họ có thể gặp nhau, bắt tay nhau qua cửa kính vỡ mà không cần mở của xe, thật thoải mái, tự hào, thắm tình đồng đội. Trên con đường Trường Sơn, họ càng đi càng gặp nhiều bè bạn:

“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới”.

Tình đồng đội đã hóa gia đình:

“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.

Cách định nghĩa về gia đình thật “lính”, thạt tếu táo. Họ đã gắn bó với nhau trong chiến đấu và càng gắn bó với nhau trong đời thường.

“Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm”

Điệp ngữ “lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Hình ảnh “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ.

Cuối cùng, nhà thơ Phạm Tiến Duật cho độc giả thấy những người lính trẻ đó đều có lòng yêu nước, có lí tưởng và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, có niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng.

“Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Khổ thơ cuối kết tinh vẻ đẹp của những chiếc xe không kính và những người lính lái xe. Sự đối lập giữa hai phương tiện vật chất và tinh thần, giữa không và có làm nổi bật cái gan góc, kiên cường, không thể hủy diệt ở những người lính. Điệp ngữ “không có” , lối nói liệt kê và nhịp thơ dồn dập như diễn tả những khó khăn chồng chất. Câu thơ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim” : nói về sức mạnh lớn lao của con người, sâu xa hơn là sức mạnh của tình yêu nước. Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần trái tim còn vẹn nguyên là xe vẫn có thể băng băng ra chiến trường. Đó là sự dũng cảm, ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu, chiến thắng. Trái tim người lính khiến chiếc xe trở thành một cơ thể thống nhất với người chiến sĩ, không phá, không ngăn cản được.

Với giọng điệu ngang tàng, phóng khoáng pha chút nghịch ngợm kết hợp hình ảnh thơ độc đáo, ngôn ngữ có tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, bài thơ đã khắc họa được bức chân dung độc đáo về những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ – can trường, quả cảm, đầy kiêu hùng trong vẻ giản dị nhất và tràn đầy tình yêu thương. Đó cũng là hình ảnh tiêu biểu của anh bộ đội Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước.

E. Một số lời bình về tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính

* Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên con đường xe chạy liên tục. Thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không thay đổi. Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàng mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định con người mạnh hơn sắt thép.

(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn , NXB Giáo dục, 2002)

* Mạn phép nói thêm về cái chất thực của bài thơ để chúng ta hiểu rằng, một bài thơ có nhiều khi vượt qua khỏi phạm trù cái đẹp văn chương thuần túy, dâng cho cuộc sống những giá trị thực tiễn lớn lao biết nhường nào. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính có cái mãnh lực thần kì ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự tức thời vừa mang tầm vóc lịch sử! Tất nhiên một bài thơ như thế phải là tiếng nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đáo của người trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ người Việt Nam.

(Võ Minh, Nói thêm về “Tiểu đội xe không kính”, Tài hoa trẻ , số 347 – 348, 2004)

Bài viết liên quan

1232