Sơ đồ tư duy Đoàn thuyền đánh cá dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Đoàn thuyền đánh cá Ngữ văn lớp 9 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 9.

3165


A/ Tác giả Tác phẩm bài Đoàn thuyền đánh cá

I. Tác giả

- Huy Cận (1919 – 2005) tên thật là Cù Huy Cận, quê ở Hà Tĩnh. 

- Trước cách mạng, ông là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Ông tham gia phong trào cách mạng trước năm 1945 và trở thành một nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

- Đặc điểm sáng tác:

+ Cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ là nét nổi bật của hồn thơ Huy Cận.

+ Thơ ông đậm đà bản sắc dân tộc, vừa mộc mạc, chân tình vừa lắng đọng, hàm súc, cổ điển.

+ Hình ảnh trong thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, ngấm sâu và tâm hồn người đọc.

- Tác phẩm chính: Lửa thiêng (1940), Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Mẹ và em (1987), Chiến trường gần với chiến trường xa (1973)….

- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện hàn lâm Thơ Thế giới. Năm 2005, được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.

II. Tìm hiểu chung tác phẩm

1. Thể loại: Thơ 7 chữ

2. Hoàn cảnh sáng tác

- Năm 1958, Huy Cận có chuyến công tác đi thực tế dài ngày về vùng mỏ Quảng Ninh (đây là thời kì cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc đang trong công cuộc dựng xây chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương cho tiền tuyến Miền Nam).

- “Đoàn thuyền đánh cá” được đưa vào tập “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).

 

3. Bố cục: 3 phần:

- Phần 1: (Khổ 1,2): Cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người.

- Phần 2: (Khổ 3,4,5,6): Cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa khung cảnh biển trời ban đêm.

-Phần 3: (Khổ 7): Cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên.

4. Giá trị nội dung

Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng ngợi ca vẻ đẹp tráng lệ, kì vĩ thân thuộc của thiên nhiên và vẻ đẹp của người lao động mới trong công cuộc dựng xây chủ nghĩa xã hội. Từ đó, nhà thơ bộc lộ niềm vui, niềm tự hào, tin tưởng trước đất nước, con người và cuộc sống mới.

5. Giá trị nghệ thuật

- Bài thơ có sự sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú. 

- Âm hưởng thơ khỏe khoắn hào hùng và sáng tạo.

B.Sơ đồ tư duy bài Đoàn thuyền đánh cá

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý phân tích bài Đoàn thuyền đánh cá

1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (hai khổ thơ đầu)

 • Khổ 1:

- Sử dụng một hình ảnh so sánh rất độc đáo: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”:

+ Tả thực mặt trời đỏ rực từ từ chìm xuống lòng biển khép lại vòng tuần hoàn của một ngày.

+ Gợi quang cảnh kì vĩ, tráng lệ của bầu trời và mặt biển lúc hoàng hôn.

+ Gợi bước đi của thời gian và đặc biệt thời gian này nó không chết lặng mà có sự vận động theo hành trình của đoàn thuyền đánh cá.

- Sử dụng hình ảnh nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”:

+ Tả những con sóng xô bờ như những chiếc then cửa của vũ trụ để chìm vào trạng thái nghỉ ngơi.

+ Gợi cảm giác gần gũi, thân thương, bởi vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn của con người.

- Hai câu sau: Dân chài cất cao tiếng hát tạo sự khỏe khoắn (2 câu thơ cuối)

+ Từ “lại” cho thấy đó là một công việc thường xuyên, quen thuộc của họ, cứ màn đêm buống xuống thì họ lại ra khơi.

+ Ẩn dụ “câu hát căng buồm” cho thấy câu hát cũng như có sức mạnh góp gió căng buồm đẩy con thuyền ra khơi.

⇒ Vũ trụ bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu ra khơi đánh cá với khí thế phơi phới và niềm vui đang chinh phục biển khơi.

⇒ Đoàn thuyền ra khơi trong trạng thái phấn chấn, náo nức đến lạ kì và dường như có một sức mạnh vật chất đã cùng với gió làm thổi căng cánh buồm, đẩy con thuyền lướt sóng ra khơi.

• Khổ 2:

- Từ “hát rằng” gợi lên niềm vui của người dân chài, hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu.

- Thủ pháp liệt kê (cá bạc, cá thu) và so sánh (như thoi đưa) mang đến âm hưởng ngợi ca, tự hào trong câu hát về sự giàu có của biển cả.

- Hình ảnh nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”:

+ Cho thấy không khí lao động hăng say không kể ngày đêm của người lao động. 

+ Gợi hình ảnh những đoàn cá đang dệt những tấm lưới giữa biển đêm.

+ Gợi những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng.

2. Khúc hát đánh cá trên biển (khổ 3+4+5+6)

• Khổ 3: Người dân ra khơi với tư thế tầm vóc lớn lao

- Nghệ thuật phóng đại “Lướt giữa mây cao với biển bằng”- con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé giờ đây qua cái nhìn của tác giả đã sánh ngang tầm vũ trụ.

- Nghệ thuật ẩn dụ: “lái gió buồm trăng”: thiên nhiên hòa hợp, cùng con người lao động.

⇒ Các biện pháp nghệ thuật trên làm nổi bật tầm vóc của con người và đoàn thuyền.

- Không khí lao động đang trở nên hứng khởi “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc đêm tối, mặc gió khơi người dân chài vẫn ra khơi dò lồng cá trong lòng biển.

- Ẩn dụ: “Dàn đan thế trận”- cuộc sống đánh cá của người dân chài như một trận chiến đấu ác liệt.

⇒ Sự kết hợp giữa hiện thực (đoàn thuyền) với chất lãng mạn (thuyền lái gió, trăng treo trên cánh buồm) tạo nên những vần thơ đẹp và sâu sắc.

 • Khổ 4:

- Bằng thủ pháp liệt kê, tác giả đã miêu tả sự phong phú và giàu có của biển cả quê hương qua những loài cá vừa quý hiếm lại vừa ngon của biển cả.

- Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng”:

+ Tả thực loài cá song, thân dài, trên vảy có những chấm nhỏ màu đen hồng.

+ Gợi hình ảnh về đoàn cá song như một cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm, đã tạo nên một cảnh tượng thật lộng lẫy và kì vĩ.

- Hình ảnh nhân hóa “cái đuôi em vẫy trăng vàng chóe”:

+ Miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới ánh trăng vàng chiếu rọi.

+ Gợi một đêm trăng đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như thếp đầy mặt biển khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng.

- Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”:

+ Gợi nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về, biển như mang linh hồn của con người, như một sinh thể cuộn trào sức sống.

 • Khổ 5:

- “Ta hát bài ca gọi cá vào”: Người dân chài đã biến công việc nặng nhọc thành bài ca vui tươi ⇒ Tiếng hát của người dân chài có khả năng kì diệu là gọi cá vào lưới.

⇒ Bút pháp lãng mạn khi miêu tả giúp cho công việc đánh cá đêm trở nên thơ mộng.

+ Những người dân chài vô cùng biết ơn biển cả “biển cho ta cá như lòng mẹ”.

+ So sánh biển với lòng mẹ cho thấy biển nuôi sống nhân dân từ bao đời nay.

⇒ Nói lên lòng tự hào và biết ơn biển.

• Khổ 6: Cảnh thu hoạch cá

- “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng”: người dân thu hoạch cá vào lúc trời đã gần sáng hăng say.

- “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”: công việc trở nên khẩn trương với hi vọng đón chờ chùm cá nặng, cho hình dung thấy những cánh tay sắn chắc, cuồn cuộn, tư thế hiên ngang, làn da nhuộm nắng gió, nhuộm cả vị mặn mòi của biển cả.

- Kéo lưới lên là khi trời đã sáng, bình minh lên là kết thúc công việc đánh cá.

⇒ Bút pháp lãng mạn được sử dụng làm nổi bật vẻ thơ mộng khi đã kết thúc công việc đánh cá đêm.

- “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”: mọi vật đều tràn ngập sức sống ⇒ Cảnh biển vào lúc bình minh bao la kì vĩ ⇒ Đoàn thuyền đang khẩn trương để trở về.

3. Khúc ca khải hoàn (Khổ 7)

- “Câu hát căng buồm với gió khơi”: gió thổi đưa câu hát của người dân chài bay cao, bay xa trên biển.

- “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”: Đoàn thuyền lướt sóng trở về như đua cùng thời gian để nhanh chóng trở về bến cảng.

⇒ Câu hát lúc trở về say sưa hơn bao giờ hết, vì một đêm lao động vất vả đã được đề đáp một cách xứng đáng.

- “Mặt trời đội biển nhô màu mới”: niềm hi vọng, sự ngợi ca cuộc sống mới của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, được làm chủ cuộc sống của mình.

- Từ láy “huy hoàng”: là ánh sáng huy hoàng của niềm vui niềm tin vào một cuộc đời tốt đẹp.

⇒ Vẻ đẹp của con người, thiên nhiên hòa hợp nhuần nhuyễn thành vẻ đẹp thực sự tráng lệ.

D. Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá

Có ai đó từng cho rằng: một trong những nguồn gốc quan trọng cùa thơ ca chính là đời sống lao động của nhân dân. Điều đó hẳn đúng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Bài thơ thực sự cất lên từ nhịp sống lao động hăng say, khoáng đạt của những người dân vùng chài. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên trên cái nền lộng lẫy, tráng lệ của vũ trụ biển cả.

Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958. Sau một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong những bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa.

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn. Phía ấy mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng: câu hát căng buồm cùng gió khơi. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất nước. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển. Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngắn dài và vang xa: cá bạc, đoàn thoi, dệt biển, luồng sáng, dệt lưới vẫn những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động.

Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá vào một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sông nước, trăng sao, trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời. Huy Cận, với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên vịnh Hạ Long vào một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời. Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển về ngư trường “dò bụng biển”, ngư dân khẩn trương lao vào công việc “dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh, mỗi thủy thủ là một chiến sĩ. Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Chữ lưới đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lôi cuốn:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá quý, cá ngon nổi tiếng. Con cá song là một nét vẽ tài hoa: vẩy cá đen, hồng, lấp lánh trên biển nước chan hòa ánh trăng “vàng chóe”. Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên nhảy múa:

Cá nhụ, cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người thật là hoà hợp.

Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Khổ thơ cuối nói về cảnh đoàn thuyền trở về bến lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát - tiếng hát thắng lợi hân hoan. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống khẩn trương:

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,

Mặt trời đội biển nhô màu mới.

Cảnh rạng đông với hình ảnh mặt trời đội biển nhô lên, tỏa ánh sáng chan hòa, một màu mới bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền phóng như bay về bến như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hoán dụ trong việc tả “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca cuộc đời. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh vật, của con người.

Với bút pháp nghệ thuật kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã khái quát hóa hình ảnh người lao động qua những vần thơ làm cho người đọc như đang chứng kiến cảnh lao động của người dân vùng chài. Hình ảnh đẹp mà giản dị, giọng văn tinh tế mà lôi cuốn, bài thơ đã tạo chất nhạc, đã tạo nên khí thế cho người lao động thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Giữa con người và thiên nhiên, hòa nhập với nhau thật kì diệu, tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vóc vũ trụ. Không còn cái cảm giác nhỏ bé khi con người đối diện với trời rộng sông dài như trong thơ Huy Cận trước cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng mạn, bay bổng và tâm hồn con người cũng thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên.

E. Một số lời bình về tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá

1. “Món quà đặc biệt của vùng mỏ Hồng Gai – Cẩm Phả cho vào túi thơ Huy Cận là bài Đoàn thuyền đánh cá; lời thơ dõng dạc, điệu thơ cất tiếng lên hát, có cả tiếng “gõ thuyền”; hơi thơ vừa kim, bởi không khí làm ăn phấn chấn, vừa cổ, cổ thể, cổ điển, những vần trắc đưa sức dội, sức mạnh cho bài thơ; từ thực tế, nhưng không đóng khung trong thực tế, mà xuất phát, mà mơ mộng, rõ ràng là trong câu chuyện đánh cá này, có địa vị của biển, của mặt trời, của gió, của trăng, của không gian to rộng, cho đến mắt những con cá mà cũng “huy hoàng muôn dặm phơi”; bài thơ lặp lại hai lần chữ “hát” thực chất là bài ca “sảng khoái”, phối hợp nhạc điệu với những động tác dồng dập mở ra bằng mặt trời xuống biển, đóng lại bằng mặt trời đội biển; ở giữa là: cài then, sập cửa, ra khơi, căng buồm, dệt biển, dàn đan thế trận, đêm thở sao lùa, lưới kéo xoăn tay…”

(Xuân Diệu, Tuyển tập Huy Cận)

Bài viết liên quan

3165