Sơ đồ tư duy Làng dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Làng Ngữ văn lớp 9 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 9.

2016


A/ Tác giả Tác phẩm bài Làng

I. Tác giả

- Kim Lân (1920 – 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn - tỉnh Bắc Ninh.

- Ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân. 

- Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962).

- Năm 2001, Kim Lân được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

- Phong cách nghệ thuật: Kim Lân có một lối viết rất tự nhiên, chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm xúc; cách miêu tả rất gần gũi, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật.

II. Tìm hiểu chung tác phẩm

1. Thể loại: Truyện ngắn

2. Hoàn cảnh sáng tác

Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên Tạp chí văn nghệ năm 1948.

3. Tóm tắt truyện:

Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Khi Pháp quay trở lại xâm lược, ông phải rời làng đi tản cư nên rất nhớ làng, vì thế ông thường ra phòng thông tin đến nghe tin tức kháng chiến. Ở khu tán cư, ông nghe được tin làng Chợ Dầu là làng Việt gian theo Tây. Ông rất bàng hoàng, xấu hổ, lo lắng sợ tin này loan ra thì người dân làng Dầu ở đây biết sống ra sao. Suốt mấy ngày trời ông chẳng dám đi đâu. Rồi tin này ai cũng biết. Nhà ông và những người dân làng Dầu đều bị xa lánh và khinh bỉ. Trong hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng đó ông dù yêu làng nhưng vẫn không đồng tình với hành động theo Tây của làng. Ông vẫn quyết giữ trọn lòng trung thành với Cách mạng, với kháng chiến và ông chỉ biết tâm sự điều đó với con trai của mình. Cuối cùng, ông chủ tịch xã của làng Chợ Dầu lên khu tản cư để cải chính tin làng Dầu theo Tây. Ông rất vui đi khoe tin với tất cả mọi người. Ông nhủ lòng càng phải yêu làng, yêu nước hơn nữa.

4. Bố cục: 3 phần

- Phần 1: (Từ đầu đến... múa cả lên vui quá): Tâm trạng của ông Hai trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

- Phần 2: (Tiếp đến... đôi phần): Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.

- Phần 3: (Còn lại): Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính.

5. Giá trị nội dung

Tác phẩm đề cập tới tình yêu làng quê và lòng yêu nước cùng tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra được thể hiện một cách chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai.

6. Giá trị nghệ thuật

Tác giả đã rất thành công trong việc tạo dựng tình huống thắt nút và cởi nút câu chuyện rất tự nhiên và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật qua hành động suy nghĩ và lời nói, từ đó tạo ra được một tác phẩm hoàn hảo.

B.Sơ đồ tư duy bài Làng

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý phân tích bài Làng

1. Hoàn cảnh đặc biệt của ông Hai

- Xuất thân là một người nông dân quanh năm gắn bó với lũy tre làng.

- Một người yêu làng nhưng phải rời làng đi tản cư.

2. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai

a. Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết

- Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể nó với niềm say mê, náo nức đến lạ thường:

+ Trước cách mạng tháng tám: Ông khoe con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân; ông khoe sinh phần của một vị quan tổng đốc trong làng.

+ Khi kháng chiến bùng nổ: Ông khoe về một làng quê đi theo kháng chiến làm cách mạng; ông kể một cách rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông hầm hào,....

- Khi buộc ông phải tảm cư, ông Hai đã rất nhớ về làng:

+ Ông thường xuyên chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện về làng, để vơi đi cái nỗi nhớ làng.

+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết người nghe có thích hay không.

+ Ông thường xuyên theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình chiến sự.

b. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:

- Ban đầu, ông chết lặng vì đau đớn, tủi hổ như không thể điều khiển được cơ thể của mình: “Có ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được”.

- Cái tin ấy quá bất ngờ và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người đi tản cư kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, “mắt thấy tai nghe”, làm ông không thể không tin.

- Sau giây phút ấy, tất cả dường như sụp đổ, tâm trí ông bị ám ảnh, lo lắng, day dứt: Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”.

- Về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân mà “nước mắt ông cứ tràn ra”.

- Muôn vàn nỗi lo ùa về trông tâm trí ông:

+ Ông lo cho số phận của những đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”.

+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, ghê tởm: “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!... Suốt cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...”.

+ Ông lo cho tương lai của gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống ra sao: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán làm sao? Ai người ta chứa”.

- Trong trạng thái khủng hoảng, giận dữ ông nắm chặt hai tay mà rít: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để rồi nhục nhã thế này”. Niềm tin bị phảm bội, những mối nghi ngờ bùng lên và giằng xé trong ông: “ông kiểm điểm từng người trong óc”.

- Mấy ngày sau đó, ông hoang mang, sợ hãi khi phải đối diện với cuộc sống xung quanh: Ông không dám đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà và nghe ngóng tình hình ngoài. Ông không dám nói chuyện với vợ, hay ông không dám nhìn thẳng vào thực tế phũ phàng đang làm ông đớn đau.

- Tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai:

+ Ông thoáng có ý nghĩ “hay là trở về làng” – rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ về làng bởi “làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”. 

+ Buộc phải lựa chọn một, ông đã tự xác định một cách đau đớn nhưng dứt khoát “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”. Nhưng dù đã dứt khoát như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với nơi mà ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó đến gần hết cuộc đời. Bởi vậy, ông muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan, cởi bỏ nỗi lòng.

+ Ông rút hết nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con ngây thơ, bé bỏng. 

⇒ Dưới hình thức trò chuyện, tâm sự với đứa con, nhưng thực chất là lời tự vấn, để tự minh oan và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình với làng, kháng chiến, cách mạng; để làm vơi đi phần nào những khổ tâm đã dằn vặt ông bấy lâu nay.

3. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính.

- Thái độ ông Hai thay đổi hẳn:

+ “cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.

+ Mồm bỏm bẻm nhai trầu, mắt hấp háy.

+ Chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình.

⇒ Vui mừng tột độ, tự hào, hãnh diện khi làng không theo giặc, cũng đồng thời thấy được tình yêu làng, yêu nước của người nông dân như ông Hai.

D. Bài văn phân tích Làng

 Với người nông dân Việt Nam, có lẽ không có thứ tình cảm nào tự nhiên hơn tình yêu đất nước. Tình yêu ấy nhẹ nhàng thấm vào máu thịt qua tình cảm dành cho người thân, làng xóm, quê hương. Nó tưởng như xa xôi nhưng lại thật gần gũi, giản dị. Thấu hiểu những điều đó, nhà văn Kim Lân đã có một thiên truyện thật hay viết về tình yêu quê hương đất nước của người nông dân: “Làng”. Diễn biến tâm trạng nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật ông Hai là một thành công lớn của tác giả khi viết về đề tài yêu nước.

Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm công trình không để đâu hết. Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “chôn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lí chung của mọi người nông dân thời bây giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản: cây đa, giếng nước, sân đình… và nâng cao lên đó chính là: tình yêu đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua: lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.

Tình yêu làng của ông Hai càng được thể hiện rõ qua những ngày ông đi tản cư. Ông luôn nhớ về làng những ngày ở vùng tản cư, ông yêu làng, yêu đường làng, ngõ xóm, yêu nhà ngói, sân gạch. Ông yêu tất cả những gì gần gũi, độc đáo của làng. Ông yêu những giờ phút hạnh phúc được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Từ tình yêu làng nồng cháy ấy, truyền thống ấy, ông đến với cách mạng từ lúc nào, từ bao giờ mà chính ông cũng không hay biết. Ông tham gia tản cư vì tản cư cũng là tham gia kháng chiến. Ở vùng tản cư, ông luôn dõi theo tin tức của làng, ông hay đến phòng thông tin nghe đọc báo. Hôm ấy, ông nghe được bao nhiêu là tin hay: “Một em nhỏ xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa”, “Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng”; “Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt được một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. Chao ôi! Bao nhiêu là tin hay, ruột gan ông lão cứ náo nức cả lên”. Đến đâu, ông cũng thấy hãnh diện, ông hay khoe về làng, về tinh thần kháng chiến của làng. Sau Cách mạng, ông khoe về làng cũng khác, ông không còn tự hào vì cái sinh phần cụ Thượng nữa mà thấy thù nó. Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa đến cho người nông dân những nhận thức mới, suy nghĩ mới về làng. Họ đã biết nhận thức được rằng cái gì đúng, cái gì sai.

Thế nhưng, niềm vui chưa kịp bày tỏ thì một cú sốc lớn đã đến với ông Hai: đó là cái tin làng Chợ Dầu là Việt gian theo Tây. Có thể nói, dưới tác động của tình huống, sự việc khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm lý nhân vật ông Hai đã có những diễn biến phức tạp và nhà văn đã trực tiếp nhập vai vào nhân vật để nói bằng tiếng nói nhân vật, mô tả sự giằng xé trong thế giới nội tâm với những mâu thuẫn, xung đột gay gắt, dữ dội. Cũng như biết bao người dân quê khác, ông Hai gắn bó sâu lặng với nơi chôn rau cắt rốn của mình – làng chợ Dầu. Tình yêu ấy của ông thật đặc biệt, biểu hiện của nét tâm lí đó là luôn tự hào và thích khoe về làng. Nhưng có một sự kiện bất ngờ đã xảy ra với ông, từ phòng thông tin bước ra đang rất phấn khởi, náo nức vì những tin vui của kháng chiến, gặp người tản cư, nghe họ nhắc tới tên làng, ông Hai quay lại, lắp bắp hỏi, hi vọng được nghe những tin tốt lành về làng, nào ngờ lại hay tin: cả làng chợ Dầu theo giặc. Trước tin dữ ấy, ông Hai sững sờ chết lặng “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được”. Từ niềm vui, niềm tin hi vọng, ông Hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, tuyệt vọng. Ông cố gắng trấn tĩnh bản thân và tìm cách lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, lo lắng khiến ông “cúi gằm mặt mà đi”, còn văng vẳng tiếng chửi “giống Việt gian bán nước”. Lòng ông lão như bị giằng xé, có cái gì như đang bóp nghẹt quả tim ông khiến ông khó thở, đau đớn tột cùng. Rồi ông lại tự mình nói chuyện với mình, lúc thì ông bảo không phải và lấy cớ để thanh minh cho chuyện ấy. Rồi ông lại thấy điều đó là sự thật thì hợp lí hơn: “Không có lửa làm sao có khói. Ai hơi đâu người ta bịa tạo ra những chuyện ấy làm gì? Chao ôi! Cực nhục chưa? Khắp cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm cái giống Việt gian bán nước…”. Rồi lòng ông lại quặn đau, nội tâm ông luôn luôn thay đổi, luôn có hai quan điểm đối lập nhau. Rồi ông lại trò chuyện với đứa con út để vơi đi đôi phần, ông hỏi đứa con ông ủng hộ làng hay Cụ Hồ, nghe nó ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh, lòng ông như được vun đắp phần nào, càng vững trí hơn. Cái lòng bố con ông như thế đấy, đâu dám đơn sai: “Các đồng chí biết cho bố con ông, Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Ông rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi biết ở vùng tản cư không ai chứa những người làng Chợ Dầu nữa để đi đến một quyết định cao đẹp. “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đó là một hành động cao đẹp của ông Hai – một người dân yêu nước. Cuối cùng, ông đã chọn đi theo Cụ Hồ theo lí tưởng cách mạng, ở đây ta thấy được sự hòa quyện giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Đó là bước chuyển biến mới trong tư tưởng tình cảm của người nông dân Việt Nam buổi giao thời mới – cũ. 

Và rồi tin làng ông Việt gian theo Tây đã được cải chính, ông lại rơi vào sự hả hê sung sướng, hạnh phúc vô bờ. Ông lại được khoe về làng, được tự hào về làng thậm chí ông khoe cả cái nhà ông bị Tây đốt cháy, ông kể tỉ mỉ, chi tiết cho bác Thứ nghe về trận đánh hôm Tây nó vào khủng bố, chúng nó cả bao nhiêu thằng chúng ta đánh được bao nhiêu, làng ông chống đỡ, phòng ngự ra sao, như chính ông lão vừa dự trận đánh vậy. Đến đây, ta thấy được nội tâm, tâm trạng ông Hai đã có sự thay đổi rõ rệt, từ tình huống thay đổi mà con người cũng đổi thay, sự đau đớn tột cùng giờ đã chuyển sang hả hê sung sướng. Qua đây ta thấy được tầm quan trọng của nghệ thuật xây dựng tình, huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật đối với một tác phẩm văn học.

Bằng sự am hiểu sâu sắc về đời sống tinh thần của những người nông dân cùng với tài năng nghệ thuật xuất sắc, nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn Làng đã xây dựng thành công tình huống truyện mang tính thử thách, qua đó tình cảm của người nông dân với đất nước, với cách mạng được bộc lộ rõ nét hơn bao giờ hết. Thông qua việc xây dựng nhân vật ông Hai, tác giả Kim Lân đã miêu tả chân thực sự chuyển biến trong tình cảm của người nông dân, đồng thời truyện ngắn cũng giúp chúng ta hình dung được một thời kì cách mạng sôi nổi của quân dân ta, trong đó toàn thể dân tộc đều nhất trí, đồng lòng đoàn kết, đi theo sự dẫn dắt, lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ.

E. Một số lời bình về tác phẩm Làng

1. Đó là nhân vật lão Hai, người nông dân nghèo khổ ấy có những nét rất mới không giống bất kì người nông dân nào trong các truyện ngắn truyện dài trước kia. Đó là người nông dân vừa được cách mạng giải phóng. Cách mạng đã đem lại quyền sống, quyền làm người, quyền tự do, bình đẳng với mọi người. Không thấy còn bóng dáng bọn cường hào, ác bá nào trong tâm trí lão. Không còn bóng dáng thấp hèn, cắn răng cam chịu trước những bất công, tàn bạo đã vùi dập người nông dân trước kia. Trong truyên “Làng” lão Hai là một người nông dân hồ hởi, phấn khởi, tự tin, tự biết vị trí mình, trách nhiệm mình trong mọi công việc của xóm làng, của đất nước. Lão là nông dân đầu tiên quan tâm đến thời sự, chính trị, đến những tin tức có liên quan đến thời vận của đất nước, người mà không ngày nào không ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức và hí hửng khoe với mọi người rằng “chuyến này Đác-giăng-li-ơ còn là phải đi đi về về ạ…”. Phải nói đây là một chuyển biến rất quan trọng về con người nông dân sau Cách mạng.

(Theo Kim Lân, Nghĩ về nghề văn, Hà Minh Đức ghi, trong Nhà văn nói về tác phẩm)

Bài viết liên quan

2016