Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
Bộ tài liệu Văn mẫu lớp 9 gồm 500 bài văn mẫu hay nhất, đầy đủ nhất. Dưới đây là bài văn mẫu Cảm nhận về bài: Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. ngữ văn lớp 9 được biên soạn mới nhất giúp các bạn học sinh học tốt môn văn 9 hơn.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
A/ Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
- Dẫn dắt vào đề tài ánh trăng.
- Giới thiệu phong cách thơ của Nguyễn Duy và bài thơ " Ánh trăng".
- Khổ thơ cuối mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.
II. Thân bài: Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài thơ.
a. Hình ảnh “Trăng cứ tròn vành vạnh”:
- Thể hiện một quá khứ đẹp đẽ của ánh trăng
- Ánh trăng quá khứ trọn vẹn, chung thủy và không phai màu
- Ánh sáng và trăng vẫn như xưa, không thay đổi
b. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc”:
- Dù trăng rất đẹp, rất chung tình.
- Nhưng dù đẹp hay lung linh đến đâu thì cũng nghiêm khắc.
- Sự hờn trách của ánh trăng đối với con người.
c. Hình ảnh “ta giật mình”:
- Nhớ lại quá khứ đẹp đẽ
- Tác giả tự vấn lương tâm mình
- Ân hận và xót xa bản thân mình
- Nhắc nhở tự hoàn thiện bản thân hơn
d. Hình ảnh qua khổ thơ cuối.
- Tác giả trân trọng và muốn giữ gìn những giá trị truyền thống đẹp đẽ
- Lãng quên quá khứ và sống cho riêng mình quên đi người bạn chân thành.
- Nhắc nhở chính mình phải sống ân nghĩa, chung tình.
III. Kết bài:
- Nêu cảm nghĩ của em về khổ thơ cuối của bài thơ Ánh trăng.
- Liên hệ từ ánh trăng đến bản thân con người.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng – mẫu 1
Trăng là một đề tài không còn xa lạ trong thơ ca. Trong các tác phẩm văn học, vầng trăng luôn xuất hiện như một người bạn tâm tình gắn bó với thi sĩ. Đặc biệt trong những năm tháng kháng chiến, vầng trăng như người đồng đội cùng kề vai sát cánh chiến đấu như nhà thơ Chính Hữu đã xây dựng hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Thế nhưng khi chiến tranh qua đi, khi con người dần quen với ánh điện sáng trưng thì lại quên đi vầng trăng, quên đi quá khứ nghĩa tình. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã khắc họa thành công điều đó đặc biệt là khổ thơ cuối gây cho ta nhiều điều đáng suy ngẫm:
Trăng cứ im phăng phắc
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
Nguyễn Duy đã mở ra một câu chuyện trước mắt người đọc. Những năm tháng tuổi thơ đẹp đẽ gắn liền với hình ảnh ánh trăng. Trăng khi ấy là bạn, luôn cùng ta tạo nên những kỉ niệm êm đềm. Đến khi đất nước gặp chiến tranh, khi ta cầm súng bảo vệ quê hương, trăng như người đồng chí cùng kề vai sát cánh chiến đấu, soi tỏ những đêm tối âm u. Thế nhưng khi đất nước được hòa bình, trở về với thành phố nhộn nhịp, với ánh sáng rực rỡ của đèn điện, ta lại dần quên đi ánh sáng dịu dàng của vầng trăng, coi trăng như người dưng qua đường. Và rồi một tình huống đột ngột xảy ra cả tòa nhà mất điện. Khi ấy mở tung cửa sổ, thấy vầng trăng sáng vẫn lặng lẽ ở đó, ta mới thấy ngỡ ngàng.
Không hề trách móc sự quên lãng của người lính, vầng trăng vẫn tròn vành vạnh, tỏa sáng dịu hiền. Thế nhưng sự im lặng không tiếng động ấy càng làm cho ta cảm thấy sự bạc bão của mình trong năm tháng qua. “tròn vành vạnh” đâu phải chỉ là vẻ đẹp vầng trăng thiên nhiên trong sáng viên mãn, đó còn làbiểu tượng cho sự thủy chung, cho tình nghĩa đã từng có trong những hồi ức vẫn không hề có chút đổi thay, không bao giờ phai nhạt. Thế nhưng càng miêu tả vầng trăng tình nghĩa, nhà thơ giống như đang tự trách mình lỡ vô tình quên đi những hồi ức tốt đẹp ấy, trách mình quên đi người bạn không bao giờ rời bỏ mình. Sự tự trách đo đã khẳng định một tâm hồn đẹp, một vẻ đẹp của nhân cách nhà thơ. “Ánh trăng im phăng phắc” là hình ảnh tuyệt đối lặng yên, không mảy may lay động. Sự tình nghĩa của ánh trăng sẽ mãi không đổi thay, luôn thủy chung cho dù cuộc sống có biến động như thế nào. Qua ánh trăng ta thấy những kỉ niệm của quá khứ sẽ luôn sống cùng với thời gian năm tháng cho dù con người có thể đổi thay, quên lãng nó để rồi đến một lúc nào đó nó sẽ gợi nhắc con người nhớ lại. Thành công lớn nhất của Nguyễn Duy trong khổ thơ này đó là đã sử dụng rất tinh tế từ “ giật mình”. Đó là một phản xạ tâm lí của nhân vật trữ tình khi nhận ra được sự vô tình bạc bẽo trong cách sống của mình trước sự uy nghi, tĩnh lặng của vầng trăng. Đó là cái “giật mình” thức tỉnh để nhân vật trữ tình tự nhắc mình phải luôn nhớ tới quá khứ nghĩa tình đã qua.
Trong cuộc sống nhộn nhịp, xô bồ, cần lắm những cái giật mình như vậy. Nó sẽ hướng con người về những cái tốt đẹp, níu giữ con người trước cám dỗ cuộc đời, không bị chìm nghỉm trong cái lo toan bộn bề của cuộc sống. Câu thơ cuối chính là sự thức tỉnh lương tâm mãnh liệt, một bài học triết lý đáng suy ngẫm.
Khổ thơ cuối cùng bài thơ “Ánh trăng” đã đem đến những triết lí nhân sinh sâu sắc. Nó như một lời cảnh tỉnh chúng ta trên từng chặng đường đời để mỗi người biết sống sâu sắc, nhân văn và ý nghĩa hơn.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng – mẫu 2
Nguyễn Duy là nhà thơ nổi tiếng trong nền thơ ca Việt Nam sau năm 1975. Bài thơ "Ánh trăng" là tác phẩm khá thành công của ông. Trong bài thơ, em ấn tượng nhất là khổ thơ cuối, noa đã thể hiện rất tròn quan niệm, tư tưởng của tác giả và cho người đọc nhiều dư vang.
Bài thơ ra đời năm 1978, sau ngày dân tộc ta hoàn toàn giành độc lập ba năm. Thế mà con người ta đã thay đổi nhiều đến bất ngờ, không còn là người nghĩa tình, thủy chung nữa. Họ đã bị cuốn vào vòng xoay của cuộc sống sang trọng, hiện đại nơi kinh kì tấp nập, bị cuốn vào cuộc sống hào nhoáng mà quên đi quá khứ đẹp đẽ. Các khổ thơ trên đã tập trung khắc họa những thay đổi của người lính năm nào và sự thủy chung một mực của vầng trăng. Đến đây, tác giả đã thể hiện trọn vẹn ý nghĩa, tư tưởng của mình. Đối diện với vầng trăng năm nào, với quá khứ nghĩa tình cùng đồng đội, nhân dân, người lính ấy nhận ra rằng "trăng cứ tròn vành vạnh". Cái tròn kia phải chăng còn là cái tròn trịa, viên mãn của quá khứ, của tình yêu thương mà nhân dân dành cho nhân vật trữ tình. Và rồi anh quay lại chất vấn chính mình. Trong khi quá khứ tươi đẹp và mọi người vẫn một lòng vẫn vẹn nguyên chung thủy thì anh đã thay đổi, cho tất cả ngủ quên trong miền sâu thẳm. Từ "cứ" diễn tả một cái gì kiên trinh, tận tâm không bao giờ thay đổi. Nó như là một dấu son khẳng định, tô đậm thêm vào sự tròn đầy vĩnh cửu của tình yêu thương. Tác giả đã làm một phép đối ẩn trong các con chữ ngắn ngủi ấy, đó là sự đối lập giữa cái tròn trịa của vầng trăng với sự khuyết thiếu trong tâm hồn của người lính. Lấy cái tròn, sáng đầy đặn của vầng trăng nghĩa tình để làm nổi bật cái khuyết trong tâm hồn của nhân vật sau ba năm trở về cuộc sống hiện đại phồn hoa. Ta nhận thấy rõ được sự thức tỉnh phần nào trong tâm hồn nhân vật. Anh đã dần thấy được sai lầm của bản thân. Đặc biệt là câu thơ :"Kể chi người vô tình". Đâu chỉ đơn giản là diễn tả một thứ cảm xúc rất nông, quấy loãng mà là một cảm xúc, tâm trạng thổn thức, dằn vặt thống thiết. Anh lính đến lúc này hoàn toàn nhận ra mình đã sai, đã vô tâm đến mức nào. Đi theo anh trong mọi nẻo đường, mọi gian khổ, nguy hiểm trong tuổi trẻ tham gia kháng chiến là trăng, theo anh trên mọi nẻo đường, mọi khoảnh khắc trong cuộc sống mới an nhàn, hạnh phúc cũng là trăng, nhắc nhở anh về lỗi lầm của mình mà không một lời trách móc cũng chỉ có vầng trăng ấy. Vậy mà giờ đây anh lại lỡ lòng lãng quên đi quá khứ, lãng quên đi người bạn tri âm tri kỷ của mình.
Đối diện với anh giờ đây là sự im lặng phăng phắc của vầng trăng ngày nào. Nó vẫn tròn đầy, vẫn vẹn nguyên nhưng không phải là bao dung hoàn toàn nữa. Trong cái lặng im kia như còn một thái độ nghiêm khắc, nhắc nhở người lính. Cuộc đối mặt đàm tâm đến đây mới thật sự sâu sắc. Hai gương mặt, mặt trăng và mặt người, hay chính là hai mặt trong lòng mỗi con người: thủy chung, nhận nghĩa và vô ơn, bội bạc. Người lính gặp lại vầng trăng hay là gặp lại chính mình của ba năm trước để thấy được mình đã sai ra sao. Và cái giật mình của người lính trong câu thơ cuối như là sự thức tỉnh hoàn toàn, triệt để của nhân vật. Anh đã thoát ra khỏi cơn mê và bên anh lúc này vẫn là vầng trăng muôn thuở. Cái giật mình ấy còn cho người lính một cơ hội sửa sai, quay về với lẽ sống nghĩa tình, thủy chung. Ta rất hay bắt gặp những cái giật mình trong thơ Nguyễn Duy. Trong đó điển hình là giật mình trong bài "Tiếng tắc kè" của ông. Với Nguyễn Duy, cái giật mình ở đây là cần thiết là đáng trân trọng. Nó dù con muộn màng nhưng ít nhất vẫn có thể là liều thuốc cứu lại nhân phẩm đang dần mất đi trong con người. Với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả đã gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu xa về lẽ sống. Đó là phải biết trân trọng những gì đẹp đẽ của quá khứ, trân trọng tình nghĩa dù có đi đâu, làm gì. Nhìn sâu hơn, nó là quan niệm nhân sinh về cách sống để giữ cho tâm hồn mình trong sáng, đẹp đẽ trong bất kì hoàn cảnh nào. Tư tưởng ấy đã vượt qua tầm thời đại, đến với bạn đọc nhiều thời, mang ý nghĩa muôn thuở. Từ đó đọng lại trong lòng người đọc là những ám gợi sâu xa, những dư ba chưa nói hết. Khổ thơ đã làm sáng bừng lên vẻ đẹp của toàn bài và của tâm, tầm một nhà thơ lớn.
Khổ thơ cuối của "Ánh trăng" là một trong những khổ thơ mà em tâm đắc nhất. Tư tưởng, ý nghĩa ma tác giả mang đến sẽ mãi đi theo bạn đọc và làm nên sức sống trường tồn cho tác phẩm.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng – mẫu 3
Thời gian luôn là một cái gì đó vô hình. Nó làm mờ dần những đau khổ trong mỗi con người, đồng thời cũng xóa đi bao ký ức đẹp, ân nghĩa thủy chung trong lòng ai đó. Một trong số ấy có nhà thơ Nguyễn Duy, qua bài thơ Ánh trăng, ta tiếp nhận được một bài học sâu sắc: Bài học về cách sống ân tình, ân nghĩa, thủy chung.
Ngày nay hoàn cảnh sống có nhiều sự thay đổi, con người cũng dần quên đi quá khứ. Người và vầng trăng trở nên xa lạ, lạc lõng, nhạt nhẽo trong nghĩa tình (dù Trăng vẫn luôn tràn đầy tình nghĩa). Cuộc sống hiện tại với vật chất, tiện nghi đầy đủ khiến con người dễ quên đi quá khứ, quên đi những ân tình thấm đẫm đã từng gắn bó một thời. Để rồi một ngày chợt nhận ra vầng trăng ngày xưa vẫn còn kia, tròn trĩnh, đong đầy. Nỗi ân hận của tác giả chợt trào dâng, chẳng phải tấm lòng của vầng trăng chính là tấm lòng của những con người trước kia đã cưu mang, che chở, chăm sóc ta hay sao? Họ chẳng phải chính là nhân dân ta, đồng bào ta, đồng chí, đồng đội của ta hay sao? Chính họ cũng đã là người sẵn sàng hi sinh cho ta đó sao? Nay ta lại trở nên vô tình đến vậy… Niềm tâm sự sâu kín của nhà thơ chính là điều ông muốn nói trong những giờ phút này, khi những lời ấy chợt trở thành thơ thì có lẽ ông đã sửa lại lỗi lầm. Đó là sự ân hận, sự sám hối của con người ta nhận ra sự bạc bẽo vô tình của chính mình:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
...
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Ấy thế nhưng, trăng vẫn đâu hề trách ta, cái nhìn dịu hiền, lành lặn không chút sứt mẻ khiến ta cảm thấy được xoa dịu nhưng cũng làm cho ta thấy được cái sự bạc bẽo của mình trong thời gian ấy, quá khứ nghĩa tình mà ta dần nhớ lại! Vầng trăng ở đây không chỉ là quá khứ vẹn nguyên mà còn là vẻ đẹp tự nhiên vĩnh hằng. Ánh trăng yên lặng không nói gì chỉ để tự ta suy nghĩ, tự đánh giá bản thân con người ta, rồi ta sẽ thấy được trong cái im lặng đó chỉ là cả một khoảng bao la rộng lượng.
Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng – hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thủy chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp quá khứ vẫn tỏa sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng không hề trách móc con người quá vô tâm như một sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan tòa lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ lặng im thôi “vầng trăng” đã thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài u tối.
Trăng ở đây đâu chỉ là trăng mà chính là biểu tượng cho những con người giản dị trong sáng, nghĩa tình. Tấm lòng của vầng trăng chính là tấm lòng của nhân dân, của đồng bào của đồng đội, người lính là vô cùng rộng lớn. Luôn luôn bao dung và tha thứ nên ánh trăng của Nguyễn Duy là một tác phẩm mang tính chất triết lí thầm kín. Đó là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng – mẫu 4
Với một giọng thơ đầy tươi trẻ, giọng thơ đầy suy ngẫm mang hương vị ca dao đằm thắm, mượt mà, Nguyễn Du trở thành gương mặt tiêu biểu và quen thuộc của phong trào thơ chống Mĩ. “Ánh trăng” là thi phẩm được nhiều người nhắc đến. Ra đời năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bài thơ ghi lại chân thực một thoáng giật mình của thi sĩ trước vẻ đẹp vầng trăng ân tình.
Trong cuộc sống mới, sinh hoạt mới, con người bị cuốn vào guồng quay của công việc, của cuộc sống mà vô tình quên đi những ân tình, những kỉ niệm của quá khứ. Nhưng vầng trăng vẫn vậy, tình nghĩa, thủy chung một lòng, không có chút thay đổi. Ý vị xót xa của bài thơ được thể hiện rất rõ trong toàn bài thơ, đặc biệt là trong khổ thơ cuối của bài. Trong bài thơ "Ánh trăng", hình ảnh vầng trăng đã trở thành hình ảnh biểu tượng cho những kí ức, biểu tượng cho quá khứ và vẻ đẹp đời sống bình dị, vĩnh hằng. Nhắc đến trăng là Nguyễn Duy muốn nhắc đến lối sống ân tình thủy chung. Nếu ở những khổ thơ trước đó, Nguyễn Duy đã gợi mở ra khoảnh khắc khu phố mất điện, để rồi giật mình nhìn thấy vầng trăng, bao nhiêu kỉ niệm, hình ảnh quá khứ gắn bó với trăng cũng như dòng thác lũ ào ào mà đổ về. Hình ảnh quá khứ càng tươi đẹp bao nhiêu, càng gắn bó bao nhiêu thì nhà thơ càng tự trách mình bấy nhiêu, trách mình sao lỡ vô tình mà quên đi, để bây giờ nhớ lại thì trong lòng lại dâng đầy tư vị của niềm xót xa. Nói về sự thủy chung của ánh trăng, cũng là lời nhắc nhở, kiểm điểm chính mình, khổ thơ cuối chứa những triết lí ý nghĩa khiến cho độc giả phải suy ngẫm:
"Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình"
Trăng, một nhân chứng cho những kỉ niệm, những hồi ức khi xưa. Trăng gắn liền với cả một thời tuổi trẻ, cùng nhà thơ lớn lên, khi trưởng thành thì vầng trăng theo sát từng chặng hành quân, chiến đấu gian khổ. Có thể nói, với Nguyễn Du, vầng trăng không chỉ là một hiện tượng của tự nhiên, vũ trụ, không phải là một vật vô tri vô giác mà là một người bạn, một người tri kỉ, là "vầng trăng tình nghĩa" của nhà thơ. Ở đây, vầng trăng đã trở thành biểu tượng của quá khứ, biểu tượng của một thời gian khó nhưng không bao giờ có thể lãng quên, là những phần kí ức sẽ luôn đi theo nhà thơ đến suốt cuộc đời. "Tròn vành vạnh" tả vẻ đẹp vầng trăng thiên nhiên trong sáng, viên mãn. Về cái nhìn thị giác, tròn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, là cái đẹp không bao giờ gây nhàm chán, thất vọng với con người. Ngoài nghĩa tả thực, hình ảnh vầng trăng tròn, lặng lẽ còn biểu tượng cho sự thủy chung, cho tình nghĩa đã từng có trong những hồi ức. Những hồi ức ấy vẫn mãi "sáng", vẫn mãi tròn trịa, viên mãn như vậy, không hề có chút đổi thay, dù thời gian có trôi qua đi nữa, thì tình nghĩa của quá khứ vẫn còn đó, không hề phai nhạt. Nhưng, sự cảm thán về vầng trăng chỉ là cách gợi mở để nhà thơ tự trách mình, trách mình lỡ vô tình, quên đi những hồi ức tốt đẹp ấy: "kể chi người vô tình". "Người vô tình" ở đây ta có thể hiểu là sự trách móc mà nhà thơ dành cho chính bản thân mình. Trách mình sao có thể quên đi những tháng ngày của quá khứ, quên đi những kỉ niệm của tuổi trẻ. Để bây giờ nhận ra bỗng cảm thấy xót xa, thấy mình sao thật vô tình. Sự tự trách của nhà thơ cũng làm cho độc giả cảm nhận một tâm hồn thật đẹp, đó là vẻ đẹp của nhân cách. Nhà thơ vốn là người trọng tình nghĩa, song vì nhịp sống mới quá hối hả xô bồ mà nhà văn vô tình quên đi. Nhưng đó chỉ là sự lãng quên trong khoảnh khắc, bởi những kỉ niệm đẹp vẫn nằm trong sâu thẳm trái tim của nhà thơ, vì vậy khi được ánh trăng soi chiếu, nhà thơ mới xúc động, mới dạt dào tình cảm đến vậy.
Trăng là biểu tượng của thiên nhiên thanh lành, tươi mát, biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của tình nghĩa thủy chung, trọn vẹn không đòi hỏi sự đáp đền. Đó chính là phẩm chất cao cả của ánh trăng mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ khác đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc: "Ánh trăng im phăng phắc" là tuyệt đối lặng yên, không mảy may lay động. Sự tình nghĩa của ánh trăng mãi thủy chung, dù cho cuộc sống có bao biến động, bao đổi thay thì vầng trăng vẫn thế, không hề có sự đổi thay. Kí ức, những kỉ niệm không hề vô tri, vô giác, nó như một sinh thể có linh hồn, có sự sống. Mà ở đây nhà thơ Nguyễn Duy đã kí thác qua hình ảnh ánh trăng. Con người có thể đổi thay, có thể quên lãng nhưng những kí ức thì vẫn còn đó, nó sống cùng thời gian, năm tháng. Để đến một lúc nào đó, nó sẽ gợi nhắc con người bằng những gì thân thương, gần gũi nhất. Con người chỉ chấn động khi chợt nhận ra, nghe lời nhắc nhủ, răn dạy trong sự uy nghi, tĩnh lặng của vầng trăng:
"ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình"
Bao dung mà nghiêm khắc, nghiêm khắc nhưng không lạnh lùng, người bạn tình nghĩa vầng trăng, ánh trắng khiến con người giật mình và thức tỉnh. "Giật mình" là cảm giác, là phản xạ tâm lí của người biết suy nghĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của chính mình. "Giật mình" vì ăn năn, tự vấn; "Giật mình" vì lãng quên năm tháng xưa, bạn bè gian khổ, đói nghèo mà ân tình, ân nghĩa. Trong dòng thác vận động của cuộc sống, những cái "giật mình" như vậy mới đáng quý làm sao. Nó hướng con người đến những giá trị cao đẹp; bảo vệ con người trước những cám dỗ; níu giữ con người khỏi bị trôi trượt trong lo toan bộn bề của cuộc sống. Câu thơ cuối cất lên như một lời tự thú, một lời tự trách, một lời tự nhắc của nhà thơ.
Nhà thơ tự trách mình đã quá vô tình, vô tình vì quên lãng, vô tình vì đã có những phút quên đi những ngày tháng, những kỉ niệm, những kí ức ấy. Sự tự trách của nhà thơ cũng làm cho người đọc phải suy nghĩ, chiêm nghiệm về chính bản thân mình. Trong cuộc sống con người rất dễ bị cuốn vào nhịp sống hối hả, tấp nập của cuộc sống mà vô tình quên đi những thứ bình dị nhưng đã đi sâu vào trong tiềm thức, đã xây kết thành những kỉ niệm vững chắc mà ta không bao giờ quên. Sự lãng quên ấy không đáng trách nhưng quay lưng lại với kí ức, với những kỉ niệm thì đó là những hành động thật đáng trách, thật đáng lên án. Tóm lại, "ánh trăng" là bài thơ hay với thể năm chữ được vận dụng sáng tạo, giọng điệu tâm tình tự nhiên.
Từ một câu chuyện riêng, được kể theo trình tự thời gian, phản ánh rất sinh động quy luật tâm lí của con người, lời thơ là lời nhắc nhở thấm thía: Không nên vô tình, vị kỉ, phải thủy chung cùng bạn bè, nhân dân, đồng chí. Thái độ, tình cảm với quá khứ chưa xa nhiều hi sinh, mất mát, với những người đã ngã xuống hôm qua khiến "ánh trăng" nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ nguồn, gợi lên đạo lí tình nghĩa, thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.