Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích Chiếc lược ngà.

Bộ tài liệu Văn mẫu lớp 9 gồm 500 bài văn mẫu hay nhất, đầy đủ nhất. Dưới đây là bài văn mẫu Cảm nhận về bài:  Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích Chiếc lược ngà.  ngữ văn lớp 9 được biên soạn mới nhất giúp các bạn học sinh học tốt môn văn 9 hơn.

457
  Tải tài liệu

Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích Chiếc lược ngà.

A/ Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Đi từ ý nghĩa của tình phụ tử, giá trị của tình cảm cha con. Khẳng định đây là tình cảm cao đẹp.

- Giới thiệu sơ nét những ý nổi bật về nhà văn Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm Chiếc lược ngà.

- Dẫn dắt vấn đề: phát biểu cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu.

2. Thân bài

* Phân tích tâm trạng của ông Sáu trong Chiếc lược ngà.

- Ông Sáu lên đường đi chiến đấu theo tiếng gọi của đất nước khi con gái mới chỉ được một tuổi => Nỗi niềm thương nhớ con da diết khôn nguôi.

- Khi ông Sáu về thăm nhà thì bé Thu dường như không nhận ra ông là cha => nỗi buồn tủi vô hạn.

- Với tính cách của bé Thu, nhất định không sở hữu và nhận ông Sáu là cha vì vết sẹo trên gương mặt. Ông Sáu đã đánh bé Thu để rồi dằn vặt ăn năn.

- Ông Sáu cảm thấy niềm hạnh phúc vô cùng khi bé Thu gọi ông một tiếng ba trước lúc ông lên đường.

- Nơi chiến trường ác liệt, ông Sáu không ngừng nghỉ thương nhớ con gái yêu quý của mình => Thực hiện lời hứa hẹn làm cho con chiếc lược ngà.

* Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà

- Ông Sáu là một người giản dị với tình yêu con mênh mông vô bờ.

- Ông Sáu vừa là một người chiến sĩ kiên cường, vừa là một người cha hết lòng yêu thương con.

3. Kết bài

- Tóm tắt lại những đặc điểm nổi bật về nhân vật ông Sáu.

- Khẳng định ý nghĩa của tình phụ tử, vai trò của tình cha con, của tình cảm gia đình so với những người dân lính.

- Thổ lộ những suy nghĩ khi cảm nhận về nhân vật ông Sáu trong Chiếc lược ngà.

B/ Sơ đồ tư duy

C/ Bài văn mẫu

Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích Chiếc lược ngà – mẫu 1

          Nhà văn Nguyễn Quang Sáng được biết đến là một nhà văn gắn bó với chiến trường Nam Bộ. Đến với đoạn trích “Chiếc lược ngà”, ta bắt gặp một tình huống truyện bất ngờ mà lại tự nhiên, hợp lý, thể hiện được sâu sắc tính cách nhân vật. Trong đoạn trích, nhân vật ông Sáu đã được khắc họa rõ nét tính cách thông qua những lời nói và hành động, thể hiện được một tình cảm thiêng liêng, đáng quý của người cha đối với con.

          Câu chuyện kể về tình cảm cha con sâu sắc giữa nhân vật ông Sáu và nhân vật bé Thu. Sau 8 năm xa cách, ông Sáu mới được một lần về thăm gia đình, thăm con. Gặp lại con, ông tưởng sẽ được con ôm chầm lấy vào lòng, nhưng ông lại phải chịu sự xa lánh của đứa con gái đầu lòng cũng là đứa con duy nhất. Trong mấy ngày nghỉ phép, ông Sáu muốn dành hết tình cảm cho con gái, nhưng con bé lại càng cố gạt ra. Trong một lần không nén nổi tức giận, ông Sáu đã quơ đũa đánh con, sau đó ông cũng đã rất hối hận về hành động của mình. Đến khi phải lên đường, thì bé Thu mới nhận ông là ba, ông vẫn phải ra đi, mang trong mình lời hứa mua cho con một cây lược, Khi bị thương nặng, ông vẫn dùng ánh mắt khẩn thiết của mình để nhờ bác Ba có ngày trao tận tay hộ ông chiếc lược ngà.Ông Sáu là một người cha hết mực yêu thương con. Xa cách con từ những ngày đầu, ông Sáu luôn canh cánh trong lòng nỗi nhớ thương con. Điều đó thể hiện rõ qua lần gặp đầu tiên của ông Sáu đối với bé Thu. Ngay cả khi xuồng chưa cập bến, ông Sáu đã rất nôn nóng được ôm chầm lấy con, và ông xúc động vô cùng vào giây phút ấy, vết thẹo trên má ông bắt đầu giật giật. Và tình cảm cho con cháy bỏng bao nhiêu, ông lại thất vọng và hụt hẫng bấy nhiêu khi bé Thu nhìn ông với ánh mắt ngạc nhiên và chạy đi. Sự hụt hẫng khi biết bao khi tình cảm, mong chờ của mình không được con gái đáp lại thể hiện qua cái buông thõng tay của ông Sáu.Trong những ngày nghỉ phép, ông Sáu luôn muốn dành tình cảm cho con, nhưng con bé lại càng lúc càng muốn đẩy ra. Ông mong chờ ở bé Thu một tiếng gọi ba nhưng càng lúc càng vô vọng, con bé bướng bỉnh và nhất quyết không gọi. Đối với những người cha khác, được nghe tiếng con gái gọi “ba” là một điều dễ dàng, nhưng đối với ông Sáu lại là một khát khao cháy bỏng. Ông dành tình yêu thương cho con nên khi con bé bị đẩy vào tình huống khó xử lúc cơm sôi ông cũng chưa giúp, chỉ mong con bé vào thế bí mà gọi ông bằng “ba”, nhưng cũng không được. Ông chỉ biết cười trừ, mà nụ cười ấy chất chứa đầy đắng cay, bất lực. Đó là sự bất lực khi tình yêu con dạt dào mà không được con chấp nhận. Đến bữa cơm, ông cũng dành cho con miếng trứng cá to và ngon nhất, nhưng con bé lại hất văng cái trứng cá ra. Quá bất lực, sự mong ngóng con chấp nhận ba hàng ngày đã dồn nén thành nỗi đau đớn, hóa thành tức giận nhất thời mà ông Sáu đã đánh con. Cái đánh con ấy, cũng khởi nguồn từ tình yêu con quá sâu nặng, sự mong ngóng được hồi đáp tình cảm từ con quá mãnh liệt. Sau khi đánh con, ông Sáu cũng đã rất ân hận, vì sao lúc đó lại đánh con, ông cũng rất thương con của mình.Đặc biệt, tình yêu thương con mãnh liệt của ông Sáu được thể hiện rõ qua khung cảnh chia tay. Lúc bé Thu nhận ba, gọi tiếng “ba” xé gan xé ruột, ông Sáu như vỡ òa trong niềm hạnh phúc. Ông khóc, những giọt nước mắt của sự chờ đợi tình cảm dồn nén qua bao nhiêu năm, được giải tỏa bởi vì con đã chịu nhận ba. Tình cảm dành cho con sâu nặng đã được đền đáp, ông Sáu đã vô cùng mãn nguyên. Tuy nhiên, ông vẫn phải lên đường làm nhiệm vụ. Ông thương con, nhớ con, giữ lời hứa mang về cho con một cây lược. Hình ảnh “chiếc lược ngà” được làm tỉ mỉ, chính là thể hiện sâu sắc nhất tình cảm của ông Sáu với bé Thu, minh chứng cho một tình cha mãnh liệt, sâu nặng.

          Ông Sáu còn là một người chiến sĩ Cách mạng tận tâm, kỉ luật, trách nhiệm. Ông là người chồng, người cha giàu tình yêu thương như thế, nhưng khi làm một người lính, được nghỉ phép ông mới về thăm nhà, mặc dù quãng thời gian xa gia đình xa con ông luôn canh cánh nỗi nhớ. Và kể cả khi thời gian về thăm gia đình rất ít, phải đến giây phút chia tay con mới nhận cha, được người đồng đội là bác Ba gợi ý hay là ở lại nhà một vài hôm, ông Sáu cũng không đồng ý, ông vẫn quyết lên đường làm nhiệm vụ. Ta có thể thấy ở đây, ông Sáu khi mang trên mình trách nhiệm đối với đất nước, ông luôn làm nhiệm vụ một cách trách nhiệm, kỉ luật.Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện và khắc họa tính cách nhân vật ông Sáu điển hình, với cách phân tích diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế. Qua đó, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh ông Sáu bên cạnh là một người cha hết mực thương con, còn là một người chiến sĩ kỉ luật, trách nhiệm, giàu tình yêu quê hương, đất nước.

Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích Chiếc lược ngà – mẫu 2

          Truyện ngắn là cưa lấy một khúc của đời sống, để chỉ qua một khoảnh khắc, một chi tiết, một hình tượng nhân vật nhà văn có thể phản ánh đầy đủ sự sống đậm đặc. Với “Chiếc lược ngà” Nguyễn Quang Sáng đã thành công khi khắc họa hình tượng nhân vật ông Sáu, một người chiến sĩ yêu nước, người cha giàu lòng yêu thương con. Qua tác phẩm nhà văn muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp ý nghĩa rằng chiến tranh dù đạn bom ác liệt những không bao giờ hủy diệt được tình phụ tử thiêng liêng, bất diệt. Hình tượng ông Sáu là sự thành công tiêu biểu trong việc xây dựng hình tượng của nhà văn.

          Câu chuyện kể về ông sáu, đi chiến khu tám năm từ khi con gái ông mới chưa tròn một tuổi, đến khi trở về với một vết thẹo dài trên mặt. Vì thế mà bé thu-con gái ông, đã không nhận ông là cha. Câu chuyện xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa người cha và đứa con sau nhiều năm xa cách, cũng là cuộc gặp gỡ đầu tiên và cuối cùng đầy xúc động, nghẹn ngào.Trước hết ông Sáu hiện lên là một người chiến sĩ nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước. Ông đã tham gia vào 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Từ năm 1946 đến tận năm 1954 mới trở về. Khi ra đi đứa con gái đầu lòng của ông mới chưa tròn một tuổi. Vậy là ông Sáu đã hi sinh tình riêng, đặt tình chung lên trên, đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, quyết hi sinh đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ mảnh đất, ngọn cỏ dân tộc, bỏ lại sau lưng ánh mắt non nớt của đứa con thơ và người vợ tảo tần ngày đêm mong ngóng. Lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ được khắc họa thật mạnh mẽ, quyết liệt.Không chỉ là một người chiến sĩ yêu nước, ông Sáu còn là một người cha giàu lòng yêu thương con. Sau nhiều năm xa cách, khi mới trở về nhà “cái tình người cha cứ nôn nao trong lòng anh”. Xuồng chưa cập bến, nhìn thấy một đứa trẻ chơi nhà chòi, đoán biết là con, không chờ xuồng cập bến anh đã nhún chân nhảy thót lên làm xuồng chới với. Bước vội vàng với những bước dài, anh gọi to “Thu! Con.” Đáp lại tình cảm của ông Sáu bé Thu nhìn một cách ngơ ngác, lạ lùng và bỏ chạy, điều ấy đã khiến ông Sáu vô cùng đau đớn, thất vọng(hai tay buông thõng ra như bị gãy). Mặc dù vậy, nhưng ông vẫn rất thương con lắm, ông rất hiểu sự ngây thơ, bồng bột của con cho nên suốt 3 ngày được nghỉ phép, ông luôn tìm cách vỗ về con, chăm sóc và bù đắp cho con những tháng ngày sống thiếu hơi ấm của tình cha. Ông chăm sóc, chiều chuộng con và chỉ mong một tiếng “ba” từ con, mặc cho Thu bướng bỉnh, những ông Sáu vẫn dành cho con những tình cảm sâu sắc. Trong bữa cơm, ông đã ân cần gắp cho Thu miếng cá to và ngon vào bát của Thu. Hành động này chứng tỏ tình cảm cha con rất sâu đậm. Kể cả khi ông Sáu đánh bé Thu vì đã hất miếng trứng cá ra khỏi bát làm mâm cơm lộng xộn thì đó cũng chỉ là bởi ông quá thương con, quá đau đớn khi nhìn thấy sự lạnh lùng của cô bé giành cho mình nên lỡ đánh con rồi sau đó dằn vặt, day dứt khôn nguôi.

          Tình yêu thương con của ông Sáu trong những ngày ở chiến khu càng thêm da diết. Sau buổi chia tay với con gái yêu để trở lại chiến trường Nam Bộ tiếp tục kháng chiến. Ông Sáu đã mang theo tình yêu thương và nỗi nhớ con vào chiến trường xen lẫn cả sự ân hận vì đã đánh con. Đồng thời ông đã dồn hết tâm sức vào việc làm chiếc lược ngà. Ông vui mừng phấn khởi khi kiếm được khúc ngà, sau đó dùng vỏ đạn hai mươi li đập mỏng thành răng cưa ngà voi thành chiếc lược ngà một cách tỉ mỉ, công phu và khéo léo. Khi cây lược được hoàn thành, ông tỉ mẩn, gò công khắc lên chiếc lược dòng chữ “yêu nhớ tặng thu con của ba”. Sau khi làm xong cây lược ông Sáu phần nào với đi nỗi nhớ con, nỗi ân hận vì đã đánh con, có cây lược bên cạnh thì ông như có đứa con gái bên mình. Có cây lược ông càng khao khát được gặp con và tận tay trao cho con chiếc lược. Nhưng trớ trêu thay, ông Sáu đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay con món quà ấy, thế nhưng ánh mắt, cái nhìn không đủ lời diễn tả của ông đã nói lên tất cả tình yêu thương ông dành cho bé Thu “trong giờ phút cuối cùng, không đủ sức để trăn trối điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, ông đưa tay vào túi, móc cây lược...”. Đó là tình cảm cao đẹp, sâu nặng cảm động trong tình cảnh éo le của chiến tranh. Tình phụ tử bất diệt ấy không bao giờ chết đi và mãi mãi bất tử ở chiếc lược ngà, trong lòng bé thu, trong lòng bác Ba, trong trái tim âm thầm của độc giả.

          Bằng cách xây dựng hình tượng nhân vật ông Sáu, Nguyễn Quang Sáng muốn gửi đến chúng ta thông điệp đầy nhân văn: tình phụ tử cao đẹp, thiêng liêng mà bom đạn có thể hủy diệt tất cả nhưng không thể cướp đi tình cha con sâu nặng, thiêng liêng. Với cách kể chuyện theo ngôi thứ nhất, cách xây dựng tình huống truyện độc đáo đã góp phần thể hiện chân thực, chính xác hình tượng ông Sáu, để lại vết khắc trong lòng bạn đọc bao thế hệ.

Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích Chiếc lược ngà – mẫu 3

          Trong các tác phẩm văn học thời kỳ kháng chiến về đề tài gia đình, có lẽ chúng ta không thể bỏ qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Đặc biệt là hình ảnh của ông Sáu, một người chiến sĩ cách mạng dũng cảm và một người cha với tình yêu thương con sâu sắc, mãnh liệt.

          Nguyễn Quang Sáng đã được biết đến như một nhà văn chiến sĩ, ông tích cực tham gia kháng chiến cũng như viết văn, chủ yếu về con người Nam Bộ. Năm 1966, khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, ông đã viết truyện ngắn này và dược in trong tập truyện cùng tên. Nhân vật ông Sáu trong truyện, theo tiếng gọi của tổ quốc ông đã lên đường đi kháng chiến, sau 8 năm mới có dịp về thăm nhà. Trong giây phút ấy, ông nôn nao, mong ngóng được gặp con và ôm ấy con vào lòng, bù đắp sự thiếu hụt của tình phụ tử bao năm. Nhưng trái lại với những mong mỏi của ông, bé Thu đối xử với ông như người xa lạ, không chịu gọi ba, bao nhiêu tình yêu thương ông dành cho con đều không được đền đáp. Giây phút hạnh phúc nhất của ông là khi bé Thu nhận ra ông nhưng đó cũng là lúc người chiến sĩ cách mạng ấy phải lên đường, bao nhiêu tình cảm ông dành vào việc làm chiếc lược ngà tặng con khi ở khu căn cứ.Ông Sáu đi kháng chiến khi bé Thu- đứa con gái đầu lòng của ông chưa đầy 1 tuổi, ông chưa một lần được gặp con, chỉ nhìn con qua những bức ảnh mà vợ mang đến. Vì vậy, nỗi nhớ con luôn trào dâng mãnh liệt trong lòng ông. “Xuồng vừa cập bến, thấy một đứa bé mặc quần đen áo bông đỏ đang chơi ở nhà chòi, đoán biết là con, ông nhún chân nhảy thót lên.” Hành động của ông vội vàng, cuống quýt chứng tỏ khao khát được gặp con trong ông lớn đến chừng nào. “Thu, con”, ấy là tiếng gọi dồn nén bao nhiêu lâu nay trong lòng người cha ấy. Khi thấy Thu tỏ ra ngạc nhiên, ông hụt hẫng, vết thẹo trên má phải giật giật và hai tay đưa về phía trước “Ba đây con”, “Ba đây con”. Nhưng Thu lại hoảng sợ và bỏ chạy, hai tay ông buông thõng xuống như bị gãy. Với tình cha mãnh liệt, thái độ của Thu đã khiến ông Sáu đau đớn và thất vọng, một người cha tội nghiệp, đáng thương.Trong ba ngày, ông chẳng đi đâu xa, chỉ muốn ở gần con nghe con gọi tiếng ba, nhưng con bé bướng bỉnh, có phần vô lễ, khi bị ép thì nó chỉ nói trổng: “Vô ăn cơm”. Trước thái độ của con, ông Sáu chỉ biết cười vậy thôi. Khi ông gắp cái trứng cá to cho Thu, nó đã hất ra làm cơm văng tung tóe. Vì tức giận ông đã đánh con. Trong giờ phút chia tay, ông muốn thể hiện tình cảm với con nhưng lại sợ Thu phản ứng, ông chỉ nhìn con với đôi mắt trìu mến xen lẫn nỗi buồn: “Thôi, ba đi nghe con”. Khi Thu cất tiếng gọi ba và thổ lộ tình cảm với ông. Ông sáu hạnh phúc và xúc động nghẹn ngào, một tay ôm con, tay kia lau nước mắt. Đó là giọt nước mắt của hạnh phúc và tình phụ tử thiêng liêng, vỡ òa trong một tiếng gọi ba.

          Tình cảm yêu thương con của ông thể hiện rõ trong những ngày ông ở khu căn cứ. Tình cảm yêu thương và nỗi nhớ con dâng trào mãnh liệt, ông Sáu day dứt vì đã đánh con. Với ông, lúc này việc làm cây lược như một bổn phận, là cây lược của tình phụ tử. Ông lấy vỏ đạn 20li đập mỏng, làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ, những lúc rảnh ông chưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ, cố công như một người thợ bạc. Trên sống lược, ông gò lưng tẩn mẩn khắc lên từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Tất cả những hành động ấy cho thấy tình yêu thương mãnh liệt mà ông dành cho Thu. Ông thường lấy cây lược chải lên mái tóc mình cho thêm bóng. Chính tình yêu thương con đã biến ông Sáu không chỉ là một chiến sĩ mà còn là một nghệ nhân chỉ sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật duy nhất, đó là cây lược kết tinh tất cả tình phụ tử mộc mạc đằm thắm, đơn xơ, kì diệu mà giản dị. Mỗi nét chữ là bao tình cảm ông dành cho con. Cây lược đã làm vơi bớt đi sự khốc liệt của chiến tranh, làm vơi đi nỗi nhớ con. Nhưng chưa trao được cây lược cho thu, ông Sáu đã hy sinh, ông nhìn bác Ba một hồi lâu, đó là bản di chúc không lời, ước vọng níu giữ tình cảm cha con.

          “Chiếc lược ngà” đã khắc họa thành công tình phụ tử thiêng liêng, tình cảm gia đình trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt qua hình ảnh ông Sáu hiền từ, dũng cảm với tình yêu thương con sâu sắc. Đó chính là động lực tinh thần giúp con người vượt lên bom đạn, chiến đấu và chiến thắng.

Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích Chiếc lược ngà – mẫu 4

          Chiến tranh đã qua đi hơn nửa thập kỉ, nhưng những nỗi đau mà nó để lại vẫn vẹn nguyên trong tiềm thức người Việt. Đã có bao tác phẩm ra đời tái hiện lại nỗi đau này và"Chiếc lược ngà" là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về tình cha con và nỗi đau trong chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ. Ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề ấy.

          Ông Sáu, một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia 2 cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi sinh. Ra đi đánh giặc từ năm 1946 mãi đến năm 1954, hòa bình lập lại, ông mới được về thăm quê một vài ngày. Ngày đi bộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của ông mới lên một tuổi, ngày về thì con đã 8, 9 tuổi. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi "ba" một tiếng cũng không trọn vẹn! Đó là bi kịch thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới. Ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ "nhận ra" ba mình và kêu thét lên: ''Ba... ba”. Ông ôm con, lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con. Ông Sáu đã ra đi với nỗi nhớ thương vợ con không thể nào kể xiết. Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo dài trên má phải – vết thương chiến tranh - đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé bỏng không nhận ra bóng dáng người cha nữa! Ông đã ra đi, mang theo hình ảnh vợ con. Với lời hứa mang về cho con gái chiếc lược cùng với nỗi ân hận day dứt "sao mình lại đánh con" cứ giày vò ông mãi. Nỗi đau, nỗi nhớ thương và mất mát... do quân giặc gây ra đã làm cho ông Sáu, cho bao người lính, cho bao bà mẹ, em thơ trên khắp mọi miền đất nước ta không bao giờ nguôi! Sự hi sinh của thế hệ đi trước để làm nên độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình là vô giá.Sau năm 1954, ông Sáu không tập kết ra Bắc, ông nhận nhiệm vụ mới ở lại miền Nam "nằm vùng" hoạt động bí mật. Trong những ngày ở rừng, ở cứ bị giặc ruồng bỏ triền miên. Thiếu gạo phải ăn bắp, gian khổ và nguy hiểm. Cái chết bủa vây cuộc chiến đấu thầm lặng. Ông Sáu vẫn không nguôi nhớ vợ con. Ông đã biến vỏ đạn 20 li của giặc Mĩ thành chiếc cưa nhỏ, đã tỉ mỉ, kiên nhẫn và khéo léo như một người thợ bạc chế tác khúc ngà voi thành một chiếc lược ngà xinh xắn có khắc dòng chữ: Yêu nhớ tặng Thu con của ba. Chiếc lược ngà với dòng chữ ấy mang theo bao tình cảm sâu nặng của người cha đối với đứa còn bé bỏng. Tình thương con của ông Sáu thật vô cùng tha thiết. Điều đó cho thấy, ông Sáu cũng như hàng triệu chiến sĩ, đồng bào ta hi sinh chiến đấu vì đất nước và dân tộc, vì hạnh phúc gia đình, vì tình vợ chồng, tình cha con.

          Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng của người lính về tình phụ - tử sâu nặng mà bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được. Chính vì thế, khi bị trúng đạn máy bay Mĩ bắn vào ngực, lúc hấp hối, ông "đưa tay vào túi, móc cây lược" đưa cho bạn, nhìn bạn hồi lâu rồi tắt thở... Ông Sáu đã hi sinh trong những ngày đen tối và gian khổ. Ngôi mộ ông là "ngôi mộ bằng giữa rừng sâu !". Nhưng chỉ có "tình cha con là không thể chết được!".Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện "Chiếc lược ngà" sâu nặng về tình cha - con. Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng đi trước mở đường đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh.Truyện "Chiếc lược ngà" và hình ảnh ông Sáu đã khơi gợi trong lòng ta bao ý nghĩa về sự hi sinh và hạnh phúc ở đời do các thế hệ cha anh đã đổ xương máu làm nên. Và bài học "uống nước nhớ nguồn" càng thêm thấm thía.

Bài viết liên quan

457
  Tải tài liệu