Cảm nhận văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” của Nguyễn Đình Thi.

Bộ tài liệu Văn mẫu lớp 9 gồm 500 bài văn mẫu hay nhất, đầy đủ nhất. Dưới đây là bài văn mẫu Cảm nhận về bài:  Cảm nhận văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” của Nguyễn Đình Thi.  ngữ văn lớp 9 được biên soạn mới nhất giúp các bạn học sinh học tốt môn văn 9 hơn.

367
  Tải tài liệu

Cảm nhận văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” của Nguyễn Đình Thi.

A/ Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

* Giới thiệu khái quát về tác giả và cảm nhận chung tác phẩm

- Nguyễn Đình Thi (1924 - 2003), quê ở Hà Nội. Tham gia Hội Văn hoá cứu quốc từ năm 1943. Có khả năng sáng tác được nhiều thể loại: tiểu thuyết, kịch, thơ, phê bình, lí luận văn học...

- Bài Tiếng nói của văn nghệ viết năm 1948, in trong cuốn Mấy vấn đề văn học xuất bản năm 1956. Nội dung bàn về tầm quan trọng của văn học nghệ thuật đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đầy gay go, gian khổ của dân tộc ta.

- “Tiếng nói của văn nghệ” đã khẳng định được giá trị bền vững của văn nghệ, là sợi dây đồng cảm kì diệu giữa nghệ sĩ và bạn đọc thông qua những rung động mãnh liệt sâu xa của trái tim.

2. Thân bài:

* Nội dung phản ánh của văn nghệ vừa là hiện thực khách quan vừa là nhận thức, tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ.

- Tác phẩm văn nghệ lấy chất liệu từ cuộc sống, nhưng khi đưa vào tác phẩm thì tác giả có sự lựa chọn, sắp xếp theo chủ ý, kết hợp với trí tưởng tượng để xây dựng nên hình tượng văn học có ý nghĩa xã hội rộng lớn.

- Tác giả gửi gắm vào tác phẩm tư tưởng, tình cảm của mình trước một vấn đề cụ thể nào đó của thời đại. Mỗi tác phẩm văn nghệ phản ánh một quan điểm sống, tác động và làm thay đổi cách nhìn nhận, suy nghĩ của người đọc.

* Tiếng nói của văn nghệ rất cần thiết đối với cuộc sống, nhất là trong hoàn cảnh chiến đấu và sản xuất đầy gian nan, thử thách của dân tộc.

- Văn nghệ giúp con người mở rộng và nâng cao nhận thức về hiện thực cuộc sống xung quanh.

- Văn nghệ góp phần làm tươi mát cuộc sống kháng chiến gian khổ và đời sống tình cảm, tinh thần của quân và dân ta thêm phong phú.

* Văn nghệ có khả năng cảm hoá mạnh mẽ và sức lôi cuốn kì diệu:

- Văn nghệ là tiếng nói của tình cảm, tác động đến mỗi người qua rung cảm của trái tim.

- Tác phẩm văn nghệ chứa đựng tình cảm vui buồn, yêu ghét của con người trong cuộc sống thường ngày.

* Sức mạnh của văn nghệ bắt nguồn từ nội dung tác phẩm và con đường mà nó đến với người đọc là từ trái tim đến với trái tim.

* Văn nghệ giúp mọi người tự nhận thức mình, xây dựng mình. Như vậy là văn nghệ đã thực hiện đầy đủ các chức năng: nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ.

3. Kết bài:

- Bài tiểu luận Tiếng nói của văn nghệ có bố cục chặt chẽ, hợp lí, cách dẫn dắt vấn đề tự nhiên, hấp dẫn, giọng điệu đậm chất trữ tình.

- Qua bài viết này, chúng ta hiểu được sức mạnh kì diệu của văn nghệ đối với đời sống của từng con người nói riêng và cả xã hội nói chung.

B/ Sơ đồ tư duy

C/ Bài văn mẫu

Cảm nhận bài Tiếng nói của văn nghệ – mẫu 1

Tố Hữu từng cho rằng cuộc sống là nơi khởi phát và cũng là nơi hướng đến của văn nghệ. Có thể thấy đối tượng phản ánh và đối tượng phục vụ của văn nghệ luôn là con người và chỉ con người. Giữa người nghệ sĩ và người đọc có sự gắn kết không thể tách rời. Nói về mối quan hệ này, Nguyễn Đình Thi cũng cho rằng: “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây chuyền cho người đọc sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng” (Tiếng nói văn nghệ)

Văn nghệ phản ánh những chất liệu hiện thực qua lăng kính chủ quan của người nghệ sỹ. Tác phẩm văn nghệ không chỉ là những lời lẽ suông, lý thuyết khô khan cứng nhắc – mà nó còn chứa đựng tất cả tâm hồn tình cảm của người sáng tạo ra nó. Những buồn vui, yêu ghét, mộng mơ, những giây phút bồng bột của tuổi trẻ… Tất cả những điều đó mang đến cho người đọc bao rung động, ngỡ ngàng trước những điều tưởng chừng như bình thường quen thuộc. Tác phẩm văn nghệ chứa đựng tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ. Nó luôn khám phá tác động mạnh mẽ đến người đọc, khám phá, thể hiện chiều sâu tính cách, số phận con người và cả thế giới bên trong con người.

Những bộ môn khoa học xã hội khác đi vào khám phá, miêu tả, đúc kết bộ mặt tự nhiên hay xã hội, các quy luật khách quan. Trong những trường hợp con người bị ngăn cách bởi cuộc sống, tiếng nói của văn nghệ nối họ với cuộc sống bên ngoài. Tiếng nói văn nghệ làm cho tâm hồn của họ được sống, quên đi nỗi cơ cực hàng ngày,con người trở nên lạc quan hơn, biết rung cảm và biết ước mơ. Văn nghệ đến với con người bằng tình cảm. Nghệ thuật không thể nào thiếu tư tưởng. Tư tưởng trong nghệ thuật không khô khan, trừu tượng mà thấm sâu những cảm xúc, nỗi niềm, từ đó tác phẩm văn nghệ nói nhiều nhất với cảm xúc đi vào nhận thức tâm hồn chúng ta qua con đường tình cảm, giúp con người tự nhận thức mình, tự xây dựng mình. Bằng cách thức đặc biệt đó văn nghệ thực hiện chức năng của nó một cách tự nhiên, hiệu quả, sâu sắc, lâu bền. Tự thân văn nghệ, những tác phẩm chân chính đã có tác dụng tuyên truyền.Vì: Tác phẩm văn nghệ chân chính bao giờ cũng được soi sáng bởi một tư tưởng tiến bộ hướng người đọc người nghe vào một lẽ sống, cách nghĩ đứng đắn nhân đạo mà vẫn có tác dụng tuyên truyền cho một quan điểm, một giai cấp, một dân tộc nào đó

Nó không tuyên truyền một cách lộ liễu, khô khan, không diễn thuyết, minh họa cho các tư tưởng chính trị.- Văn nghệ là cả sự sống con người, là mọi trạng thái cảm xúc, tình cảm phong phú của con người trong đời sống cụ thể, sinh động. Văn nghệ tuyên truyền bằng con đường đặc biệt – con đường tình cảm. Qua tình cảm, văn nghệ lay động toàn bộ con tim khối óc của chúng ta. “Nghệ sĩ truyền điện thẳng vào con tim khối óc chúng ta một cách tự nhiên sâu sắc và thấm thía. Nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên con đường ấy”. Nghệ thuật mở rộng khả năng cảm nhận, thưởng thức của tâm hồn. Nghệ thuật giải phóng con người khỏi những giới hạn chật hẹp của đời sống con người.Nói tóm lại, nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm. Nó có sức mạnh kì diệu, sức mạnh cảm hóa to lớn.Văn nghệ nối sợi dây đồng cảm kỳ diệu giữa nghệ sỹ với bạn đọc thông qua những rung động mãnh liệt, sâu xa của trái tim.Văn nghệ giúp con người được sống phong phú hơn và tự hoàn thiện nhân cách, tâm hồn mình. 

Nguyễn Đình Thi đã phân tích, khẳng định những điều ấy qua bài tiểu luận “Tiếng nói của văn nghệ” với cách viết vừa chặt chẽ vừa giàu hình ảnh và cảm xúc.Văn nghệ có khả năng cảm hóa, sức mạnh lôi cuốn của nó thật kỳ diệu bởi đó là tiếng nói của tình cảm, tác động của mỗi con người qua những rung cảm sâu xa từ trái tim. Tác phẩm văn nghệ chính là tiếng nói “của tâm hồn”, là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, là sợi dây chuyền cho người đọc sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng.

Cảm nhận bài Tiếng nói của văn nghệ – mẫu 2

Thật đúng đắn khi nói rằng văn học là tiếng nói đầy nghệ thuật thuật của người nghệ sĩ. Chúng là những sợi dây vô hình gắn kết truyền tải cảm xúc, tư tưởng của người nghệ sĩ đến với độc giả. Trong Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi đã lập luận một cách đầy thuyết phục và duyên dáng quan điểm trên.

Nguyễn Đình Thi (1924-2003), quê gốc ở Hà Nội, ông là nhà thơ, nhà văn, nhà lý luận và phê bình văn hóa sâu sắc. Tác phẩm Tiếng nói của văn nghệ được sáng tác năm 1948 và in trong tập Mấy vấn đề văn học (1956).Trong phần đầu của tác phẩm Nguyễn Đình Thi đi vào phân tích và làm rõ nội dung của văn nghệ. Ông cho rằng văn học là thực tại khách quan, là tất cả những gì tồn tại xung quanh chúng ta, mượn những vật liệu từ chính cuộc sống đa màu, đa vẻ, không phải là thứ gì bay bổng, cao xa.

Có lẽ có tâm hồn đồng điệu với Nguyễn Đình Thi, Nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng cũng đã viết trong tác phẩm Vũ Như Tô rằng: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi” hay Nam Cao cũng có một quan điểm nghệ thuật rất hay: “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Thêm vào vào đó, nghệ thuật không chỉ đơn thuần là những ghi chép cứng nhắc, khô khan mà là những cảm nhận chân thực và sâu sắc từ tâm hồn của người nghệ sĩ, thông qua lăng kính chủ quan của mình người nghệ sĩ ấy đã biến những thứ vốn quen thuộc thành thứ nghệ thuật đầy mới mẻ. Chứng minh cho quan điểm của mình Nguyễn Đình Thi đã trích hai câu thơ do đại thi hào Nguyễn Du viết, rằng:

“Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Mùa xuân vốn là một hiện tượng tự nhiên của cuộc sống, câu thơ chỉ đơn thuần tả mùa xuân nhưng qua lăng kính chủ quan, tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời và cảm nhận sâu sắc của Nguyễn Du mùa xuân trở nên tràn đầy sức sống, lan tỏa trong từng câu chữ là vẻ đẹp tươi non, mơn mởn, căng tràn nhựa sống. Đọc câu thơ mà ta như thấy mùa xuân trong lòng Nguyễn Du hiện ra trước mắt, chân thật, tuyệt diệu đến thế. Hay là cái chết đầy thảm khốc của An-na Ca-rê-nhi-na, ẩn sâu trong đó là sự ám ảnh, bâng khuâng, buồn thương cho số phận của những con người trong xã hội, mà khi gấp trang sách lại ta vẫn còn vương vấn như nghe, như thấy được tâm tư tình cảm của Tôn-xtôi khi viết nên những dòng chữ sâu sắc này.

Từ các dẫn chứng tiêu biểu như vậy ta có thể nhận ra rằng khác với khoa học xã hội, chỉ bao gồm những quy luật và những điều khách quan mang tính lý thuyết, thì văn nghệ lại đi sâu vào đời sống tinh thần con người và làm thay đổi những suy nghĩ, tình cảm ẩn chứa bên trong mỗi con người khác nhau. Không chỉ nói về nội dung cốt lõi của văn nghệ Nguyễn Đình Thi còn trình bày quan điểm của mình về sức mạnh và ý nghĩa của văn nghệ. Văn nghệ có sức mạnh như là một sợi dây kết nối thế giới bên ngoài với con người bị ngăn cách khỏi cuộc sống, tiêu biểu như những người tù chính trị, bị giam cầm cả về thể xác lẫn tinh thần, bị ngăn cách bị tra tấn trong không gian chật hẹp, tù túng, đầy ngột ngạt.

Người nghệ sĩ trong hoàn cảnh ấy đã gửi tư tưởng mình vào thơ văn, coi đó là một thế giới mới, kết nối với thế giới bên ngoài.Hồ Chí Minh đã đánh rơi một viên ngọc quý xuống nền văn học Việt Nam với tập thơ Nhật ký trong tù, có đoạn thơ hóm hỉnh, đầy lạc quan như sau:

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Cùng hoàn cảnh ấy, Tố Hữu cũng viết Khi con tu hú đầy tha thiết, rạo rực, khát vọng tự do cháy bỏng, có câu rất ấn tượng, đạt tới cảnh giới cảm xúc “Ngột làm sao, chết uất thôi.” Như vậy văn nghệ là cách để người nghệ sĩ giãi bày tâm trạng, cách nhìn nhận cuộc sống, đồng thời đem tới cho họ vũ khí sắc bén, cổ vũ tinh thần hiên ngang bất khuất, nuôi dưỡng tâm hồn người nghệ sĩ được trong sáng, vững vàng trước hoàn cảnh khốn khó, gian khổ.

Ngoài ra trong các tác phẩm của Nam Cao hay Thạch Lam còn là sự cổ vũ tinh thần của những con người khốn khổ hay sống trong cảnh bị áp bức bóc lột, cổ vũ tinh thần đấu tranh, thay đổi cuộc sống, hướng tới một cái gì đó tốt đẹp hơn. Văn nghệ gắn với lao động sản xuất, gắn với thiên nhiên. Đối với những con người lam lũ vất vả văn nghệ đem tới cho họ ánh sáng hi vọng, lay động tình cảm, như những câu hát than thân, những câu hát về tình yêu thương cuộc sống, những câu hát về tình yêu thiên nhiên đất nước. Tất cả đều là tác phẩm của những người nông dân chân lấm tay bùn, thông qua lao động vất vả, họ tìm ra được những quy luật cuộc sống và đưa vào ca dao tục ngữ, truyền miệng từ đời này sang đời khác để làm phong phú thêm cuộc sống tinh thần, thắp sáng tâm hồn. Tay làm mà miệng nhẩm vài câu ca dao, bỗng cảm thấy yêu đời đến thế, mệt mỏi bỗng chốc tan biến, đấy chính là sức mạnh của văn nghệ. Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng và Nam Cao đều có chung một quan điểm, một ý nghĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống con người. Văn nghệ không thể xa rời cuộc sống, văn nghệ mượn chất liệu từ cuộc sống để làm nên nghệ thuật, đấy mới là thứ nghệ thuật chân chính có giá trị sâu sắc. Nghệ thuật cũng gắn liền với tư tưởng của con người, nghệ thuật không phô bày ngay trước mắt mà nó ẩn sâu trong lớp vỏ của cuộc sống hằng ngày, “náu mình, yên lặng” chờ một tâm hồn đủ sức để khai phá chúng.Và để làm được như vậy người đọc phải tự mình cảm nhận, không áp đặt, lộ liễu, khô khan. Nam Cao viết: “…nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời”, muốn hiểu thì phải trầm mình vào, mở rộng lòng mà cảm nhận, thế mới cảm nhận được thứ nghệ thuật chân chính nhất.

Chung quy lại, nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm, từ vui, buồn, giận dữ, hay tuyệt vọng, hăng hái,… tất cả đều có thể thông qua nghệ thuật mà bày tỏ, truyền đạt. Nghệ thuật đốt lửa trong lòng chúng ta, những đốm lửa đầy nhân văn, sưởi ấm những tâm hồn lạnh giá, cô tịch nhất, giải phóng con người, giúp con người tự thoát khỏi cái gông xiềng tăm tối vô hình của bản thân. Tạo cho tâm hồn con người sự sống mãnh liệt, làm phong phú thế giới nội tâm, khiến con người biết yêu thương hơn cuộc sống này.

Trong tác phẩm Ý nghĩa của văn chương có đoạn: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện cho ta những tình cảm sẵn có, …”, đây cũng là một phần tác dụng của nghệ thuật gắn liền với đời sống rất sâu sắc và đáng giá. Vậy chính ra nghệ thuật đóng vai trò to lớn nhất trong việc xây dựng đời sống tâm hồn xã hội, dựa trên nền tảng của cuộc sống xã hội!

Tiếng nói của văn nghệ trải qua hơn nửa thế kỷ đầy biến động, thế giới văn chương có phần đổi khác những những quan điểm của Nguyễn Đình Thi chưa bao giờ là cũ, mà nó luôn trường tồn với thời gian. Điều đó cho thấy, thời nào cũng vậy văn nghệ luôn có những đặc điểm chung nhất, mà người nghệ sĩ phải nắm rõ để sáng tác ra những tác phẩm nghệ nghệ thuật chân chính, có giá trị, thế mới là người nghệ sĩ có tâm và có tầm.

Cảm nhận bài Tiếng nói của văn nghệ – mẫu 3

Tố Hữu từng cho rằng cuộc sống là nơi khởi phát và cũng là nơi hướng đến của văn nghệ. Có thể thấy đối tượng phản ánh và đối tượng phục vụ của văn nghệ luôn là con người và chỉ con người. Giữa người nghệ sĩ và người đọc có sự gắn kết không thể tách rời. Nói về mối quan hệ này, Nguyễn Đình Thi cũng cho rằng: “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây chuyền cho người đọc sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng” (Tiếng nói văn nghệ)

Văn nghệ phản ánh những chất liệu hiện thực qua lăng kính chủ quan của người nghệ sỹ. Tác phẩm văn nghệ không chỉ là những lời lẽ suông, lý thuyết khô khan cứng nhắc – mà nó còn chứa đựng tất cả tâm hồn tình cảm của người sáng tạo ra nó. “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây chuyền cho người đọc sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng” như lời Nguyễn Đình Thi từng nói. Những buồn vui, yêu ghét, mộng mơ, những giây phút bồng bột của tuổi trẻ… Tất cả những điều đó mang đến cho người đọc bao rung động, ngỡ ngàng trước những điều tưởng chừng như bình thường quen thuộc.Tác phẩm văn nghệ chứa đựng tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ. Nó luôn khám phá tác động mạnh mẽ đến người đọc, khám phá, thể hiện chiều sâu tính cách, số phận con người và cả thế giới bên trong con người.Những bộ môn khoa học xã hội khác đi vào khám phá, miêu tả, đúc kết bộ mặt tự nhiên hay xã hội, các quy luật khách quan. Trong những trường hợp con người bị ngăn cách bởi cuộc sống, tiếng nói của văn nghệ nối họ với cuộc sống bên ngoài. Tiếng nói văn nghệ làm cho tâm hồn của họ được sống, quên đi nỗi cơ cực hàng ngày,con người trở nên lạc quan hơn, biết rung cảm và biết ước mơ.

Văn nghệ đến với con người bằng tình cảm. Nghệ thuật không thể nào thiếu tư tưởng. Tư tưởng trong nghệ thuật không khô khan, trừu tượng mà thấm sâu những cảm xúc, nỗi niềm, từ đó tác phẩm văn nghệ nói nhiều nhất với cảm xúc đi vào nhận thức tâm hồn chúng ta qua con đường tình cảm, giúp con người tự nhận thức mình, tự xây dựng mình. Bằng cách thức đặc biệt đó văn nghệ thực hiện chức năng của nó một cách tự nhiên, hiệu quả, sâu sắc, lâu bền. Tự thân văn nghệ, những tác phẩm chân chính đã có tác dụng tuyên truyền.Vì: Tác phẩm văn nghệ chân chính bao giờ cũng được soi sáng bởi một tư tưởng tiến bộ hướng người đọc người nghe vào một lẽ sống, cách nghĩ đứng đắn nhân đạo mà vẫn có tác dụng tuyên truyền cho một quan điểm, một giai cấp, một dân tộc nào đó. Nó không tuyên truyền một cách lộ liễu, khô khan, không diễn thuyết, minh họa cho các tư tưởng chính trị.- Văn nghệ là cả sự sống con người, là mọi trạng thái cảm xúc, tình cảm phong phú của con người trong đời sống cụ thể, sinh động.Văn nghệ tuyên truyền bằng con đường đặc biệt – con đường tình cảm. Qua tình cảm, văn nghệ lay động toàn bộ con tim khối óc của chúng ta. “Nghệ sĩ truyền điện thẳng vào con tim khối óc chúng ta một cách tự nhiên sâu sắc và thấm thía. Nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên con đường ấy”.

Văn nghệ giúp con người được sống phong phú hơn và tự hoàn thiện nhân cách, tâm hồn mình. Nguyễn Đình Thi đã phân tích, khẳng định những điều ấy qua bài tiểu luận “Tiếng nói của văn nghệ” với cách viết vừa chặt chẽ vừa giàu hình ảnh và cảm xúc. Văn nghệ có khả năng cảm hóa, sức mạnh lôi cuốn của nó thật kỳ diệu bởi đó là tiếng nói của tình cảm, tác động của mỗi con người qua những rung cảm sâu xa từ trái tim. Tác phẩm văn nghệ chính là tiếng nói “của tâm hồn”, là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, là sợi dây chuyền cho người đọc sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng.

Nghệ thuật mở rộng khả năng cảm nhận, thưởng thức của tâm hồn. Nghệ thuật giải phóng con người khỏi những giới hạn chật hẹp của đời sống con người. “Tiếng nói của văn nghệ” đã khái quát một cách sâu sắc chân lí này.Nói tóm lại, nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm. Nó có sức mạnh kì diệu, sức mạnh cảm hóa to lớn.Văn nghệ nối sợi dây đồng cảm kỳ diệu giữa nghệ sỹ với bạn đọc thông qua những rung động mãnh liệt, sâu xa của trái tim.

Cảm nhận bài Tiếng nói của văn nghệ – mẫu 4

Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng đều bắt nguồn từ cuộc sống thực tại và sứ mệnh của nó là phục vụ cuộc sống của con người, qua bài “Tiếng nói của văn nghệ” chúng ta hiểu hơn về giá trị của những tác phẩm văn học nghệ thuật đích thực qua những lập luận đầy sắc bén, chặt chẽ và thuyết phục của Nguyễn Đình Thi

Có lẽ có tâm hồn đồng điệu với Nguyễn Đình Thi, Nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng cũng đã viết trong tác phẩm Vũ Như Tô rằng: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi” hay Nam Cao cũng có một quan điểm nghệ thuật rất hay: “Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. nghệ thuật không chỉ đơn thuần là những ghi chép cứng nhắc, khô khan mà là những cảm nhận chân thực và sâu sắc từ tâm hồn của người nghệ sĩ, thông qua lăng kính chủ quan của mình người nghệ sĩ ấy đã biến những thứ vốn quen thuộc thành thứ nghệ thuật đầy mới mẻ. Chứng minh cho quan điểm của mình Nguyễn Đình Thi đã trích hai câu thơ do đại thi hào Nguyễn Du viết, rằng:

“Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Đọc câu thơ mà ta như thấy mùa xuân trong lòng Nguyễn Du hiện ra trước mắt, chân thật, tuyệt diệu đến thế.Hay là cái chết đầy thảm khốc của An-na Ca-rê-nhi-na, ẩn sâu trong đó là sự ám ảnh, bâng khuâng, buồn thương cho số phận của những con người trong xã hội, mà khi gấp trang sách lại ta vẫn còn vương vấn như nghe, như thấy được tâm tư tình cảm của Tôn-xtôi khi viết nên những dòng chữ sâu sắc này.

Chung quy lại, nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm, từ vui, buồn, giận dữ, hay tuyệt vọng, hăng hái,… tất cả đều có thể thông qua nghệ thuật mà bày tỏ, truyền đạt. Nghệ thuật đốt lửa trong lòng chúng ta, những đốm lửa đầy nhân văn, sưởi ấm những tâm hồn lạnh giá, cô tịch nhất, giải phóng con người, giúp con người tự thoát khỏi cái gông xiềng tăm tối vô hình của bản thân. Tạo cho tâm hồn con người sự sống mãnh liệt, làm phong phú thế giới nội tâm, khiến con người biết yêu thương hơn cuộc sống này. Trong tác phẩm Ý nghĩa của văn chương có đoạn: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện cho ta những tình cảm sẵn có, …”, đây cũng là một phần tác dụng của nghệ thuật gắn liền với đời sống rất sâu sắc và đáng giá. Vậy chính ra nghệ thuật đóng vai trò to lớn nhất trong việc xây dựng đời sống tâm hồn xã hội, dựa trên nền tảng của cuộc sống xã hội!

Văn nghệ giúp con người được sống phong phú hơn và tự hoàn thiện nhân cách, tâm hồn mình. Nguyễn Đình Thi đã phân tích, khẳng định những điều ấy qua bài tiểu luận “Tiếng nói của văn nghệ” với cách viết vừa chặt chẽ vừa giàu hình ảnh và cảm xúc.

Bài viết liên quan

367
  Tải tài liệu