Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.

Bộ tài liệu Văn mẫu lớp 9 gồm 500 bài văn mẫu hay nhất, đầy đủ nhất. Dưới đây là bài văn mẫu Cảm nhận về bài:  Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.  ngữ văn lớp 9 được biên soạn mới nhất giúp các bạn học sinh học tốt môn văn 9 hơn.

395
  Tải tài liệu

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.

A/ Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

- Truyện ngắn "Lão Hạc" là một trong những tác phấm tiêu biểu thể hiện sự chân thực, vừa có một ý vị triết lí mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc.

- Nhân vật Lão Hạc đã để lại ấn tượng sâu sắc về một người nông dân hiền lành, chất phác, giàu lòng nhân ái, tự trọng đáng kính.

2. Thân bài:

a. Cuộc đời – cảnh ngộ của Lão Hạc: Người nông dân nghèo khó, gặp nhiều bất hạnh:

- Vợ mất sớm, nhà nghèo, con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su.

- Sống cô đơn trong tuổi già, đối diện với nhiều rủi ro: ốm nặng, yếu, không có việc, hoa màu bị bão phá sạch.

- Chỉ có con chó vàng làm bầu bạn nhưng phải bán đi vì cảnh nghèo.

- Luôn canh cánh thương con, vì chưa lo được cho con trọn vẹn.

- Đến khi bước vào đường cùng phải tìm đến cái chết thương tâm.

b. Phẩm chất, nhân cách của Lão Hạc:

- Giàu lòng nhân ái, có tấm lòng vị tha, nhân hậu

- Là người cha vô cùng thương con, lo lắng cho con

- Giàu lòng tự trọng.

c. Cái chết của Lão Hạc: Là một biến cố điển hình để nhân vật bộc lộ tính cách điển hình:

- Chết để tự giải thoát kiếp sống mòn.

- Chết vì quá thương con, muốn giữ trọn vốn liếng cho con, giữ tiếng cho con.

- Chết để tránh bị đẩy vào con đường tha hóa, biến chất.

- Cái chết như một sự hi sinh tàn khốc vì tương lai, nó chứng tỏ sự bế tắc của hiện tại.

- Minh chứng cho tấm lòng lương thiện.

- Minh chứng cho nỗi bất hạnh và phẩm giá của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.

d. Suy nghĩ, đánh giá về nhân vật:

- Thương xót một con người bất hạnh.

- Trân trọng lòng tự trọng đáng quý.

- Yêu quý một con người giàu lòng nhân ái, yêu thương con.

3. Kết bài:

- Nam Cao đã xây dựng thành công hình tương người nông dân trước cách mạng tháng Tám thông qua nhân vật Lão hạc.

- Rút ra bài học: con người ta dù trong hoàn cảnh nào cũng không thể đánh mất đi nhân cách

B/ Sơ đồ tư duy

C/ Bài văn mẫu

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 1

Nam Cao là một trong những cây viết xuất sắc của nền văn học hiện thực phê phán 1930 -1945. Những tác phẩm của ông đều chất chứa tình yêu thương đồng cảm sâu sắc trước những mảnh đời những số phận bất hạnh bị xã hội dồn đẩy đến bước đường cùng.  Trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến Lão Hạc. Nhân vật Lão Hạc chính là đại diện cho những người dân lao động khốn khổ bị xã hội vùi dập đến bức đường cùng song không vì thế mà mất đi những phẩm chất lương tri cao đẹp.

Hầu hết các tuyến nhân vật Nam Cao xây dựng đều có đặc điểm chung là tầng lớp nhân dân lao động thấp cổ bé họng. Bị dồn đẩy bởi hoàn cảnh nghèo đói đến mức phải tìm đến cái chết. Như Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa sự lương thiện bởi định kiến của người đời, nhân vật chị Dậu bước ra ngoài đêm đen như cái tiền đồ của chị, hay Lão Hạc chết bởi bả chó…. Thế nhưng điều khác biệt ở đây đó là nhân vật lão Hạc một người nông dân lương thiện, một đại diện tiêu biểu cho nhân cách cao thượng mà thanh tao cái chết của lão để lại cho độc giả nhiều trăn trở suy ngẫm. Cuộc đời lão là bi kịch nối dài bởi bi kịch. Lão góa vợ từ lúc còn trẻ, một mình cảnh gà trống nuôi con. Với lão đứa con vừa là để gửi gắm tinh thần vừa là điểm tựa duy nhất trong cuộc đời. Thế nhưng vì nhà nghèo không đủ tiền cưới vợ con lão phẫn chí bỏ nhà đi đồn điền cao su. Thế là từ đấy một mình lão sống cảnh côi cút lủi thủi với con chó tên Vàng – kỉ vật duy nhất con trai lão để lại. Nghe cái tên đã thấy con chó có ý nghĩa như thế nào với lão rồi. Nó không chỉ là kỉ vật do con trai lão để lại mà nó còn là người bầu bạn tâm tình bên lão. Thế nhưng dường như cuộc đời vẫn chưa ngừng bạc đãi lão.

Năm ấy lão bị ốm nặng. Biết bao nhiêu việc trong làng đàn bà tranh nhau làm hết. Một người ốm yếu như lão lại càng khó tìm được công việc. Lão sống lủi thủi với củ ráy, sung luộc, con ốc, con chai cho qua ngày. Thế nhưng dường như nỗi niềm của người cha vẫn không thôi đau đáu nhớ về con. Sự đau đớn, nhớ nhung chờ đợi cùng với căn bệnh dai dẳng đã bóp nghẹt trái tim khắc khoải của người cha già. Sau trận ốm lão yếu đi hẳn. Chưa dừng lại ở đây thiên tai đi qua mùa màng bị quét sạch lão rơi vào cảnh khốn cùng. Thế nhưng sâu thẳm trong tâm trí người cha chưa bao giờ nghĩ đến cảnh bán mảnh vườn. Vì lão tính rồi dù lão có chết cũng muốn để lại cho đứa con trai ít vốn làm ăn. Cả đời lão để chẳng lo nổi vợ cho con rồi lão không muốn ăn hết cả tiền vốn cho nó nữa. Trong lúc thất bát đó lão thốt lên câu chua xót với ông giáo Thứ : “Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho sướng?” Câu nói của lão như lưỡi dao xoáy sâu vào tâm trí của người đọc cũng đồng thời là tiếng nói của những giai tầng lao động cực khổ, khốn cùng.

Lão chọn kết thúc cuộc đời bằng bả chó xin được của Binh Tư. Thế nhưng trước lúc chế lão còn gửi gắm được cho con trai 3 sào vườn và 30 đồng bạc. Đó chính là số vốn chắt chiu đổi bằng máu nước mắt thậm chí cả tính mạng của người cha già khốn khổ cho đứa con duy nhất của mình. Tuy sống trong cảnh thiếu thốn về vật chất song lão Hạc lại là người sống vô cùng tình cảm. Đó là tình yêu thương khắc khoải mong mỏi con trai, và tình yêu thương vô bờ bến đối với cậu Vàng – con chó bầu bạn bên lão. Lúc phải đứng trước sự lựa chọn là cậu Vàng hay số vốn ít ỏi cho con trai lão đau đớn đành bán đi cậu Vàng. Có ai biết rằng khi đưa ra quyết định khó khăn đó lão đã vật vã đau khổ đến nhường nào. Lão gục xuống khuôn mặt méo mó đến cùng cực. Lão thấy bản thân mình thật là xấu xa, hèn mọn và xấu hổ. Lão đã đánh lừa cả một con chó. Việc bán cậu Vàng đi cũng là một cách lão dọn sẵn đường đi cho cuộc đời mình. Vì lão biết nếu tiếp tục nuôi Vàng thì lão cũng không thể cho nó được nổi miếng ăn. Đọc đến đây ta mới thấy đau đớn biết nhường nào trước tính lương thiện trong con người lão Hạc.Trước lúc ra đi lão đã nhịn ăn để lấy tiền làm ma bởi lão không muốn phiền lụy hàng xóm không muốn họ khổ thêm vì mình nữa. Có thể nói giữa một xã hội đầy rối ren như thế nhân cách của Lão Hạc chính là một điểm sáng mà rất nhiều người đáng phải học tập. Sự ra đi của lão không phải là một cái kết bế tắc mà nó mở ra một hướng đi mới một lối thoát mới cho số phận những kiếp người bèo bọt trong xã hội bất giờ.

Lão Hạc chính là một trong những tác phẩm hay nhất viết về số phận người dân khốn khổ trong xã hội cũ. Nó như một nốt nhạc ngân vang mãi trong tâm hồn người đọc. Một câu chuyện buồn về tình người, về nhân cách làm người khiến triệu người cảm động. Thế mới hiểu rằng con người ta dù trong hoàn cảnh nào cũng không thể đánh mất đi nhân cách vì nó chính là thứ quý giá nhất trong cuộc đời.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 2

Từ xưa đến nay nói đến tình người, ta nói ngay đến “Lão Hạc”. Tác phẩm này được coi là truyện ngắn xuất sắc của văn học hiện thực phê phán thời kì 1930 - 1945. Đó là một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã khắc hoạ vào lòng người đọc một cách sâu đậm về hình ảnh một lão nông đáng kính với phẩm chất của con người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực thương con.

Cuộc đời Lão Hạc là một chuỗi những đau khổ bất hạnh, một kiếp người chua chát và cay đắng từ khi sinh ra cho đến khi ra đi về cõi vĩnh hằng. Goá vợ từ khi còn trẻ, một mình lão gà trông nuôi con trong cảnh đói nghèo, lam lũ những mong con khôn lớn, trưởng thành làm chỗ nương tựa lúc ốm đau, khi tuổi già. Nhưng niềm hạnh phúc ấy đã không đến với lão. Vì không đủ tiền cưới vợ, anh con trai phẫn chí đăng tên đi phu làm đồn điền cao su. Cảnh chia lìa của cha con lão Hạc không hẹn ngày sum họp. Lão Hạc mất vợ nay lại thêm nỗi đau mất con.

Cảnh khốn khó về vật chất hoà trong nỗi đau về tinh thần thành dòng lệ chảy trong trái tim chờ đợi khắc khoải của người cha. Nhưng cuộc đời dường như vẫn chưa buông tha lão. Bất hạnh rồi bất hạnh cứ liên tiếp giáng xuống đầu người cha khốn khổ ấy. Kiệt sức vì lam lũ lầm than, vì mòn mỏi chờ đợi, lão ôm nặng. Sau trận ôm đó lão yếu đi rất nhiều, không thể làm được những việc nặng. Làng mất nghề sợi, đàn bà rỗi rãi nhiều, có việc gì nhẹ họ đều tranh hết. Lão Hạc rơi vào cảnh bần cùng hoá hoàn toàn. Lão sống vật vờ với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc... Những thứ ấy cũng chẳng dễ gì kiêm được với một lão già đã cạn kiệt sức lực.

Cùng đường sống, lão Hạc tìm đường đến cái chết, lấy cái chết để tự giải thoát cho mình. Lão đã ăn bả chó để tử tự. Lão chết đau đớn thê thảm “đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, mồm tru tréo bọt mép sùi ra. Vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết”. Cái chết thật dữ dội! Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đau thương. Với ngòi bút nhân đạo tha thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương nồi xót xa đối với con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như lão. Chí Phèo tự sát bằng lưỡi dao, Lang Rận thắt cổ chết và lão Hạc cũng quyên sinh bằng bả chó! Lão Hạc từng hỏi ông giáo: “Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho sướng?”. Câu hỏi ấy thể hiện nỗi đau khổ tột cùng của một con người. Lão Hạc sống nghèo khổ về vật chất nhưng rất giàu tình cảm. Tình yêu thương con nồng nàn sâu sắc của lão là câu chuyện cảm động về tình cha con. Nhìn con đau khổ vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc khổ tâm vô cùng. Lão thấy mình như có lỗi với con và day dứt mãi. Khi con phẫn chí đáng trốn đi làm đồn điền cao su, trái tim người cha thật sự tan nát. Nỗi thương nhớ con thường trực trong người cha đã biến thành sự khắc khoải ngóng trông: “Thằng cháu nhà tôi dễ đến hơn một năm nay chẳng có giấy má gì ông giáo ạ”. Ta đọc được trong câu nói tình cảm ấm áp cuả người cha. Thương nhớ con lão dồn tình cảm âu yếm cậu vàng - kỉ vật của người con để lại. Cái tên cậu vàng đã chứa đựng tất cả tình cảm quý mến và thân thiết đối với một con vật - một kỉ vật. Không phải bất cứ người nào cũng có thể yêu thương con vật như vậy. Những cơn mưa bão liên miên, hoa màu trong vườn đều bị phá sạch, việc làm chẳng còn, nếu cứ tiếp tục như vậy thì sẽ ăn vào số tiền chắt chiu dành dụm cho con. Đặt lên bàn cân mà tính, suất ăn của con chó cũng bằng lão, vậy thì tốn quá. Giữa số tiền dành dụm cho con và con chó - người bạn tâm tình, lão sẽ chọn ai đây? Để đi đến quyết định, lão đã phải dằn vặt đau khổ, lão suy nghĩ nhiều, nhiều lắm mới dũng cảm bán con chó. Cuộc lựa chọn khó khăn tàn khốc diễn ra trong nước mắt. Nhưng nếu không bán con chó, lão sẽ chết và số tiền dành dụm cho con cũng chẳng còn. Lão bán chó đâu phải để ăn mà để lo tương lai cho đứa con. Hình ảnh lão Hạc “miệng méo xệch, khóc hu hu” khi nghĩ rằng mình đã lừa một con chó là hiện thân của tấm lòng cao cả.

Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn cả vào việc quyết giữ bằng được mảnh vườn cho con. Khi đã hết đường sinh nhai, lão có thể bán vườn đi, nhưng lão không làm thế, lão thà chết chứ nhất định không chịu bán đi một sào. Thậm chí trước lúc chết lão còn tìm nơi nhờ cậy gửi gắm mảnh vườn ấy... Cuộc đời lão Hạc thật bi thương. Nhưng giữa cuộc đời khôn khó, lão Hạc vẫn ý thức được nhân phẩm của mình. Lòng tự trọng của một người không cho phép lão nhận sự giúp đỡ của ông giáo mà lão biết chẳng sung sướng gi hơn lão, càng không cho phép lão phiền luỵ đến bà con lối xóm. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, lão Hạc đã nhịn ăn để dành tiền làm ma cho mình. Ta nhận thấy ở lão một triết lí sống cao đẹp biết nhường nào... Dưới một xã hội đen tối ngột ngạt, không ít người đã đánh mất nhân phẩm, hoặc tha hoá biến chất. Ta cũng dễ dàng tìm thấy họ qua một loạt sáng tác của Nam Cao. Nhưng khác với họ, dù nghèo đến đâu, lão Hạc vẫn sống trong sạch và lương thiện. Chính nhân vật ông giáo đã nhận xét về lão: “Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vôn không ưa gì lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá.” Hết kế sinh nhai lão có thể chọn con đường theo Binh Tư nhưng lão Hạc không làm như thế. Lão thà chết chứ nhất định không bán linh hồn cho quỷ dữ. Một cách sống và xử thế thật đáng trân trọng, phù hợp với đạo lí “ thác trong hơn sống đục” của nhân dân ta.

Như vậy, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực; sông thì âm thầm nghèo đói cô đơn; chết thì quằn quại đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có phẩm chất tốt đẹp như hiền lành chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao miêu tả chân thực với biết bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thông thiết.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 3

Các tác phẩm về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám đã lên án gay gắt xã hội thối nát thời xưa, một xã hội điêu tàn, bất lương, luôn luôn dồn ép những người dân vô tội vào cảnh bần cùng khốn khổ. Đồng thời, các câu chuyện cũng ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý của họ. Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là một trong những tác phẩm thành công nhất của đề tài này.

Ngay từ nhan đề của truyện đã giúp ta biết rằng nhân vật chính của câu chuyện là một ông cụ. Sự thực đã là như vậy, câu chuyện là cuộc đời của một cụ già vô cùng khắc khổ. Lão khắc khổ từ hình dáng đến số phận của mình. Đó là một ông lão già nua, bất hạnh vì cô đơn, bệnh tật lại luôn bị sự đói nghèo dằn vặt. Vợ chết sớm, lão phải lâm vào cảnh gà trống nuôi con một thân một mình nhưng khốn thay, con trai lão do không chịu nổi sự khổ cực bần hàn, sự lạnh lùng, đen bạc đã xin đi phu đồn điền cao su. Vậy là vợ con đã đều rời xa lão, lão chỉ còn biết bầu bạn với con chó vàng. Lão coi nó như là một đứa con, đứa cháu, một người thân của mình để chia sẻ từng miếng cơm, manh áo của mình cho nó, ngày ngày bầu bạn, tâm sự với nó. Nhưng, cuộc sống dồn đẩy đến tận cùng, lão ốm nằm liệt giường, không làm được việc gì, phải ăn bòn vào tiền vườn vẫn để dành cho con. Tiếp sau, làng bị “mất nghề vé sợi” công ăn việc làm cũng hiếm hoi hơn. Lựa chọn duy nhất giờ đây là phải bán con chó đi vì một miệng ăn cũng đã không lo đủ rồi huống chi còn nuôi thêm một con chó – “ốc còn không mang nổi mình ốc thì làm sao vác cọc cho rêu” được ! Cái chi tiết lão bán con chó đi làm người đọc như chúng ta không thể không đau lòng. Hôm bán xong con vàng, lão sang nhà ông giáo để bộc lộ. Lão cố làm ra vẻ bình thường nhưng không thể giấu được nỗi đau trong lòng : “trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước…”. Nỗi đau làm biến dạng khuôn mặt của con người già nua đầy đau khổ đó : “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Hình ảnh đó càng làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của lão Hạc, đó là tính lương thiện và lòng thương con vô bờ bến. Lão bán con chó để không dùng vào tiền vườn, tiền để dành cho con về cưới vợ. Tình cha con sâu sắc của người nông dân già cả, nghèo khó khiến người đọc không khỏi cảm động và yêu mến.

Lão còn nhờ ông giáo giữ hộ mảnh vườn để mai sau người con trở về có nhà để ở, có vườn và ruộng để mà làm ăn bằng một văn tự mua bán hẳn hoi. Thậm chí để lo hậu sự mai sau cho mình lão cũng rất chu tất, chả phiền lụy, nhờ vả, vay mượn ai cả. Hình như theo lão có để lại cho con thì chỉ để tài sản chứ không để lại nợ nần. Tin tưởng trao gửi cả một “tài sản” lớn đối với lão cũng như đối với đời sống kinh tế lúc bấy giờ, mà không chút nghi ngờ, băn khoăn phải chăng bắt nguồn từ tấm lòng đầy nhân hậu, vị tha của nhân vật. Từ đó, ta thấy được ẩn sâu trong những con người đầy nghèo khổ và buồn đau này một tấm chân tình cảm động xiết bao. Cái kết của câu chuyện mới là cái đáng nói nhất trong tác phẩm Lão Hạc này. Cuối cùng thì lão Hạc cũng chết. Đây không phải là một cái chết bình thường mà là cái chết đau đớn của một con chó : “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên.”. Đọc đến đây tôi thấy rất sợ, không sợ vì cảnh vật vã rồi chết, mà vì tính chất thâm độc của chế độ thực dân phong kiến xưa kia. Tôi thường nghĩ, phải chăng Nam Cao quá lạnh lùng, vì tác phẩm nào của ông cũng toàn chết chóc, đau thương, các nhân vật đều kết thúc bằng cái chết. Sự thực ngòi bút của ông dù có thương nhân vật đến đâu cũng không thoát khỏi cái quy luật mà xã hội cũ quá ư tàn nhẫn gây ra cho những người dân vô tội. Nó chỉ cho lão Hạc có hai cách sống : Thứ nhất là lão sẽ phải tiêu lẹm vào tiền vườn của con, điều đó đời nào lão chịu. Thứ hai là lão sẽ phải làm những việc bất lương như Binh Tư thì lão lại càng không làm nổi. Con người mà đau khổ không giảm được nhân cách, đã khóc một cách cay đắng vì trót lừa một con chó thì làm sao có thể làm hại ai được ! Nam Cao đã linh hoạt và khéo léo lồng ghép các chi tiết để cuối cùng sự lựa chọn duy nhất của lão Hạc là cái chết. Chính vì chi tiết này mà truyện ngắn Lão Hạc đã lên án gay gắt xã hội cũ loạn lạc, mục ruỗng. Nó sẵn sàng xô đẩy ông lão nghèo khổ đó chọn cái chết như là giải pháp duy nhất để lão Hạc thoát khỏi cuộc sống đoạ đày đau khổ mà vẫn giữ nguyên được tấm lòng lương thiện của mình.

Qua truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta đã biết thêm được về số phận, cảnh đời của những người nông dân trong xã hội xưa nói chung và lão Hạc nói riêng. Lão Hạc chính là hiện thân cho một nhân cách cao đẹp trong cái bóng đêm bao trùm lên những người dân vô tội khốn khổ khi xưa.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 4

Văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 là nơi hội tụ của nhiều cây bút văn xuôi xuất sắc. Mỗi người một đề tài, một phong cách sáng tác riêng song đều tập trung phản ánh tính cách và số phận của nhiều tầng lớp người dân thời kì đó. Khi nhân dân ta rơi vào cảnh nước mất, nhà tan, bản thân là kiếp nô lệ thì cuộc sống không thể khác là sự đọa đày và khổ đau. Điều đó đã được thể hiện sâu sắc qua truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao.

Trước hết ông là một người nông dân gặp nhiều nỗi khổ tâm và bất hạnh, vì nghèo đói nhưng rất chất phác đôn hậu và giàu lòng yêu thương con. Trong cảnh làng mất nghề, người nghèo khắp nơi thì những người già nghèo như lão Hạc là khổ hơn cả. Lão sức yếu mà không có người đỡ đần, chăm sóc khi tuổi già. Đau khổ hơn cho lão Hạc là người con trai đi bặt vô âm tín mấy năm liền. Bản thân lão ốm yếu luôn mà không có tiền chữa bệnh, lão Hạc sống nốt những năm cuối đời trong cảnh cô đơn. Mòn mỏi về bệnh tật và chờ đợi đứa con ngày cũng như đêm, đó là nỗi bất hạnh và khổ tâm rất lớn của lão Hạc. Cô đơn về tinh thần, về vật chất lão Hạc cũng chẳng sung sướng gì. Đói khổ, bàn đầu lão Hạc còn ăn củ khoai, củ sắn, sau thì ăn thức ăn tự tạo lấy : “Hôm thì ăn củ chuối, hôm thì ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, củ khoai hay bữa trai, bữa ốc”. Lão đã quỵ ngã vì bệnh tật, vì nhớ mong khắc khoải. Tuổi lão đã cao, lại thêm sự lo toan cho cuộc sống, thời gian cứ đánh gục dần lão. Chính cái chế độ thực dân phong kiến ấy đã bần cùng hoá lão, dồn lão đến trước con đường của Binh Tự : con đường bất lương, trộm cắp, đánh bả chó. Mặc dù đã bị dồn đến bức tường cuối cùng ấy nhưng lão Hạc vẫn không chịu cúi đầu chui qua cái lỗ nhỏ mà số phận chỉ cho, lão không chịu bán đi hai chữ “lương thiện” mà chấp nhận kết thúc cuộc đời, kết thúc một kiếp người như kiếp chó của mình. Cái chết của lão Hạc thảm thương quá : Lão “vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc.”. Như vậy đấy, cuộc đời người nông dân trước Cách mạng khổ từ khi sinh ra cho đến tận lúc chết, mà hình ảnh điển hình là lão Hạc đã được đưa vào văn học.

Mặc dù đời sống bị bần cùng hoá đến cùng cực như vậy nhưng lão Hạc vẫn không mất đi những phẩm chất vốn có của người nông dân Việt Nam. Từ lời nói đến việc làm, suy nghĩ của lão Hạc đều toát lên vẻ thật thà, chất phác. Lão nói với ông giáo : “Tôi cắn rơm, cắn cỏ lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì cho tôi gửi.”. Nghe lão nói thật hiền từ mà chất phát quá ! Nhỡ sang tên cho ông giáo rồi, ông ta nghèo quá mà bán đì thì sao? Ấy là cái tính của người nông dân “chọn mặt gửi vàng”, tin tưởng vào những người có học. Cao hơn cả chất phác, lão Hạc là người có tấm lòng đôn hậu. Ông lão rất thương con, nhất định không dùng đến tiền bán vườn của con. Yêu con nên thấy con không cưới được vợ, lão Hạc rất đau khổ. Sống cô đơn, nghèo khổ, nhưng ngày cũng như đêm, lão đều nghĩ, đều thương đến con. Vì thương con và bất lực trước cuộc sống, lão mới kết thúc cuộc đời để khỏi xâm phạm đến mảnh vườn của con. Tình yêu con của lão cũng thể hiện ở sự thương yêu, trân trọng kỉ vật của con để lại : một con chó “lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”.

Cuộc đời lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực. Sống thì âm thầm, nghèo đói cô đơn ; chết thì quằn quại đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng,… Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao miêu tả chân thực với bao nhiêu trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

Bài viết liên quan

395
  Tải tài liệu