viết đoạn văn 10 dòng em hãy nêu cảm nghĩ về tình yêu nước của tầng lớp tri thức gia đoạn cách mạng tháng 8 qua bài thơ nhớ rừng
Quảng cáo
1 câu trả lời 292
Một trong những nhà văn xuất sắc có mặt ngay từ những ngày đầu là Thế Lữ. Nhiều tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển của thơ mới, đáng chú ý nhất là tác phẩm của Nhớ Rừng.
Trong Nhớ rừng, Thế Lữ bày tỏ sự phẫn nộ, buồn chán và mong muốn tự do cháy bỏng thông qua tâm trạng của con hổ trong sở thú. Đó cũng là lời tâm sự chung của những người yêu nước Việt Nam trong tình trạng mất đất nước.
Cùng chung thái độ nổi loạn, Thế Lữ đã viết những dòng thơ trong bài thơ Nhớ rừng. Mượn lời của một con hổ tại sở thú để thể hiện tâm trạng của riêng bạn. Thế Lữ đã thiết lập một cảnh tả rất thực tế và ẩn sâu bên trong. Tất cả những hình ảnh được đề cập trong bài viết là không gian xung quanh cuộc sống của con hổ.
Thực tế là con hổ bị nhốt trong cũi sắt và nó cảm thấy rằng cuộc sống của nó tràn ngập sự phẫn nộ trong điều kiện nuôi nhốt, những cảnh "tầm thường sai lầm" tại sở thú. Do đó, nó cảm thấy hoài cổ về quá khứ huy hoàng trong những ngọn núi và khu rừng hùng vĩ. Đây là hai cảnh hoàn toàn mâu thuẫn giữa thực tế và quá khứ.
Hổ ban đầu được coi là chúa tể của tất cả các sinh vật, nhưng bây giờ vì mùa thu, chúng phải sống "sự sỉ nhục" trong cũi sắt. Không gian sống của vua rừng đã bị thu hẹp và kể từ bây giờ đã được biến thành một "trò chơi lạ mắt", một "trò chơi" trong mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống bây giờ đã trở nên vô vị vì sống ở một nơi không tương thích với việc trở thành một vị vua núi.
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”
Con hổ cảm thấy bất lực vì không có cách nào thoát khỏi cuộc sống chật chội, vì vậy nó không thể không nhìn thời gian trôi qua vô ích. Nhưng bất kể hoàn cảnh nào, người thuộc về "con vật thiêng liêng" luôn biết danh tính thực sự của mình như một vị thần.
Chán nản làm thế nào cảnh phải sống cạnh nhau với "những con gấu điên", với "những tờ báo vô tư ở bên cạnh"! Làm thế nào để chịu đựng cuộc sống từ chức để chấp nhận số phận của "những người bạn" trong cùng một hoàn cảnh. Đó là nỗi buồn, sự tức giận nén lại để làm cho lòng căm thù chứa đựng trong trái tim. Mệt mỏi, mệt mỏi, bất lực! Trong những hoàn cảnh đáng thương này, con hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ vinh quang của mình:
“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội”
Con hổ hối hận khi nhớ lại kỷ nguyên "ông chủ" nơi "bóng cây cổ thụ". Đó là nỗi nhớ đau đớn về khu rừng sâu thẳm. Nhớ về khu rừng là tiếc nuối sự tự do, nhớ về "thời gian vinh quang", là nhớ về quý tộc, chân thực, tự nhiên. Ở đất nước trẻ hùng vĩ đó, con hổ đang thống trị một lực lượng ở giữa cuộc sống.
Sự dũng cảm của một vị vua miền núi luôn xứng đáng với sức mạnh tối cao của mình với sức mạnh lớn. Những gì nó phải làm là làm cho mọi thứ sợ hãi thuần hóa. Ở đó, con hổ xuất hiện với tư thế kiêu hãnh và kiêu ngạo nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp hùng vĩ giữa những ngọn núi hùng vĩ:
“Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong bóng tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật phải im hơi
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi”
Vẻ đẹp thực sự của hổ là ở đây! Từng bước một, từng mảng cơ thể, mỗi con mắt gợi lên một sự uy nghi và mềm mại hùng vĩ. Trong mỗi hành động, những con thú khác đã cho mọi thứ thấy sức mạnh tối thượng khiến mọi người "câm miệng". Cuộc sống trong tự do trong rừng mãi mãi là một điều rất cao quý. Có những con hổ thực sự tận hưởng một cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên dành cho. Đó là khoảnh khắc con hổ "say", nhìn sự thay đổi của "Giang Sơn", đang ngủ và muốn chiếm lấy "phần bí mật".
Nó thoải mái ở đất nước của mình và khẳng định giá trị thực sự của cuộc sống với vẻ đẹp lộng lẫy, thơ mộng và cũng đầy quyến rũ. Nhưng bây giờ, tất cả chỉ là những ký ức trong quá khứ. Hổ chưa bao giờ nhìn thấy cảnh "đêm vàng bên dòng suối", nhìn thấy "những ngày mưa bước sang bốn ngàn", nghe tiếng chim hót, đắm mình trong "bình minh, cây xanh và nắng. rửa ", đang chờ đợi" mảnh chết của mặt trời "của buổi chiều" lấp lánh máu phía sau khu rừng ".
Những cảnh đó chỉ để lại cảm giác hối hận trong con hổ, bị nhét vào bởi cảm xúc mạnh mẽ, tràn ngập của những câu hỏi đau đớn. Nỗi nhớ dài dòng với những cảm xúc về quá khứ tươi đẹp đã khép lại giấc mơ vinh quang trong một tiếng khóc cay đắng:
“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu”
Sống lại với những ký ức đẹp trong những ngọn núi và khu rừng hùng vĩ, con hổ đột nhiên nhận ra sự tầm thường sai lầm của những cảnh nơi nó sống. Trong vẻ kiêu ngạo của con hổ là những cảnh "không bao giờ thay đổi", những cảnh đơn điệu nhàm chán được chỉnh sửa bởi mọi người và cố gắng "bắt chước".
Vua của rừng rậm thể hiện thái độ khinh miệt và khinh miệt đối với những cảnh nhỏ bé và thấp kém của những lời nói dối nhân tạo. Nó không phải là một nơi xứng đáng để sống như một người cai trị. Ngay cả khi chúng ta cố gắng sửa chữa nó, thì đó chỉ là những "dải nước đen không chảy" dưới những "gò đất thấp kém", những "bông hoa chăm sóc, những mỏm cỏ, những con đường bằng phẳng, thực vật" không có gì là "bí ẩn" "hoang dã". Những cảnh sống ngụy trang này khiến những con hổ thậm chí còn hối tiếc hơn khi chúng nhớ đến nơi "ngàn năm cao cả và tối tăm".
Ghê tởm với cuộc sống thực, ôm lấy sự oán giận liên tục, con hổ khát một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả cảm xúc của con hổ thuộc về khu rừng tối tăm hàng ngàn năm. Cũng thông qua đó, vua núi đã gửi một thông điệp một cách nghiêm túc về những ngọn núi và rừng.
Mặc dù đang suy tàn, nhưng con hổ không thể che giấu niềm tự hào của mình khi nói đến "đất nước trẻ hùng vĩ". Giang Sơn là nơi những chú hổ đã có một ngày vui và vật lộn trong một không gian riêng biệt, rộng rãi. Ngay cả bây giờ họ sẽ không bao giờ được hồi sinh ở những nơi cũ, nhưng con hổ vẫn không bao giờ ngừng nghĩ về "giấc mơ lớn". Vị thần thất sủng đã cầu xin được sống mãi trong ký ức, ký ức về vẻ đẹp bất 400m:
“Để hồn ta phảng phất được gần người
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi”
Trái tim của con hổ là lời thú nhận của chàng trai trẻ, The Lu, mơ về một quá khứ cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ mới, mang theo mong muốn sống của con người.
Hãy nhớ rằng Forest không thể thoát khỏi nỗi buồn, "căn bệnh của tuổi tác" vào thời điểm đó. Nhưng bài thơ là duy nhất bởi vì nó tạo ra một điểm gặp gỡ giữa sự phẫn nộ của những người mất nước và tâm trạng bất hòa bất lực đối với thực tế của giới trí thức tư sản trẻ tuổi. Qua đó khơi dậy mong muốn tự do chính đáng.
Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh tâm, Hãy nhớ rằng Khu rừng đã lan tỏa một tâm hồn thơ mộng và nhiều hình ảnh thơ mộng ấn tượng mô tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Lu là thể hiện trí tưởng tượng phong phú khi anh mượn hình ảnh của một con hổ trong sở thú để nói về sự bí mật sâu sắc của mình. Qua đó thể hiện sự căm ghét cuộc sống chật chội, đồng thời khơi dậy tình cảm yêu nước của người dân lúc bấy giờ.
Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 1
Trước hết, ta cần hiểu vì sao tác giả bài thơ lại mượn "lời con hổ ở vườn bách thú"? Chú thích cho một hình tượng thơ có lẽ không ngoài một dụng ý: Tránh đi sự suy diễn, hiểu lầm. Hình tượng con hổ cho dù có là một sự hoá thân của thi sĩ, nó vẫn là một chủ thể trữ tình, nhất quán và toàn vẹn. Đó là phần nổi của bài thơ. Còn phía sau, phần chìm có thể liên tưởng đến hai lớp nghĩa có cả ý thức giải phóng cá nhân (cái tôi), có cả tâm trạng nhớ tiếc, ru hoài của một dân tộc đang bị xiềng xích, đang khao khát tự do, với thái độ phủ nhận thực tại mà hướng về quá khứ oanh liệt vàng son. Bởi vậy, khi phân tích bài thơ không thể bỏ qua cái nhìn chính diện.
Cái nhìn đối mặt với cảnh ngộ bị cầm tù của con hổ, cơ sở của niềm u uất không nguôi, là một cái nhìn đầy bi kịch. Tính chất bi kịch này cần được hiểu theo hai cấp độ: Một là hoàn cảnh đổi thay, nhưng con hổ không đổi thay. Sự "không đổi thay" của con hổ ở cả hai phương diện chủ quan và khách quan: Một mặt nó không cam chịu hạ mình và một mặt nữa: Nó không chấp nhận hoàn cảnh. Không chịu hạ mình vì con hổ luôn ý thức mình là một bậc đế vương, ngự trị trên cái ngai vàng vĩnh hằng của bậc vua chúa. Còn thái độ không chấp nhận hoàn cảnh cũng là từ đó mà ra: Chấp nhận môi trường sống đã đổi thay, nó không còn là chính nó. Không chấp nhận, không tự đổi thay tạo nên độ chênh và sự giằng xé dữ dội. Tâm trạng nguyên khối ấy tượng hình lên một con hổ với niềm u uất không nguôi chạy đọc bài thơ, đi vào từng câu thơ như những hồng cầu để nuôi cơ thể.
Hai đoạn thơ nói về hoàn cảnh đã đổi thay (đoạn 1 và đoạn 4) tạo nên xung đột, một xung đột không thể dung hoà, thật là ngột ngạt. Nhưng trong cái vòng xoáy của tâm tư ấy, mỗi đoạn thơ là một nỗi đau riêng. Có nỗi đau của sự bất đắc chí, bị "sa cơ", lỡ vận phải rơi vào cảnh ngộ trớ trêu (đoạn 1), phải chấp nhận một cảnh ngộ không thể nào chấp nhận: Vừa giả tạo vừa tầm thường (đoạn 4). Đối lập thứ nhất (đoạn 1) là đối lập giữa hai giống loài không thể nào là "ngang bầy", là đồng loại, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với cặp báo yên phận, vói bọn "gấu dở hơi". Ý thức về sự không thể "ngang bầy" nay đang phải chịu "ngang bầy" tạo nên cú sốc đầu tiên vô cùng chua chát:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Khác với hình thức của câu thơ thất ngôn kiểu cũ, câu thơ tám chữ đó là một sự cách tân, nhưng sự đột biến của cuộc cách mạng thi ca phái nói đến âm điệu, ở tỉ lệ những thanh bằng, thanh trắc của câu. Trong câu thơ Đường luật, tỉ lệ đó ngang bằng hoặc xấp xỉ ngang bằng, có sự phối hợp đan xen, còn đây tần số những thanh bằng bị áp đảo, không những thế, các thanh trắc đều dồn trọng tải vào đầu và cuối câu như những gọng kìm rắn chắc, những kim khí va chạm nhau. Uất ức và bất lực là tâm thế của các sinh vật bị giam cầm, nhất là với giống loài không chịu đựng được xiềng xích, giam cầm như loài hổ. Bất lực uất ức công với bất lực buồng xuôi là đặc tả chân dung đầy ấn tượng ở hai câu đầu. Nó được phân bố tinh vi đến từng âm tiết. Nếu câu đầu, những âm thanh chối tai đặc quánh lại thì đến câu sau, nó mất hút, nó bị thay thế: Những thanh bằng buông xuôi, trải rộng, lan xa không còn sinh khí nữa. Cái khinh và cái tức của con hổ chỉ còn được nén lại trong lòng như một nỗi niềm u ẩn. Nó cứ dày thêm trầm tích của niềm đau. Không phải ngẫu nhiên trong đoạn thơ tiếp nối sáu câu, có đến bốn câu nói đến loài người. Đành rằng ở đây, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với đồng loại (gấu, báo) đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, nhưng có lẽ niềm căm phẫn với con người, với giống người mới đủ sức tạo nên một giọng thơ hằn học. Là bởi vì với con hổ thì loài báo, loài gấu vốn là những con vật hiền lành, vô hại, nhưng với con người đã diễn ra một tương quan đối nghịch giữa thắng và thua.
Mà sự thua thắng này, oan uổng thay, không do thực tài thực sức (có lẽ loài người chỉ hơn loài hổ ở sự túc trí đa mưu). Cái lẽ ra phải thua đã thắng, đôi mắt hạt đậu đã có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự hạ nhục đối với loài hổ, đau đớn thay là vị thế phải tôn thờ, sùng bái (ông ba mươi) chỉ còn là "trò lạ mắt, thứ đồ chơi". Còn câu thơ nói về cặp báo, bọn gấu chẳng qua chỉ là một thứ vĩ thanh của cái mặt bằng hèn kém mà con hổ phải rơi vào. Nếu đoạn một của bài thơ nói về sự đổi thay vị trí thì đoạn bốn của bài thơ nói về tâm trạng của con hổ khi phải đối mặt với cái mà nó không muốn đối mặt. Tâm trạng ấy giống như một quả bóng bị xì hơi, ấy là tâm trạng của giống chim trời bị trói cánh. Cũng là cảnh rừng thiêng nhưng chỉ là sự "học đòi bắt chước vẻ hoang vu", nó tầm thường nhạt nhẽo. Nó có đủ nhưng thật ra không có gì, vì cảnh thiên nhiên tưởng như là có cả, nhưng linh hồn của nó thì không:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém…
Nếu sự đổi mới của thơ ca bắt đầu từ nhịp điệu, thì đây là một trường hợp mở đầu, một ví dụ điển hình. Nếu ngắt nhịp, ta có câu một: 2/2/2/2, câu hai: 5/3, câu ba: 3/5 thật là phóng túng. Nó diễn tả sự chật chội, bị bó buộc, gò bó cần phải phá tung ra để nói được cái thật của cảm nghĩ, cái khao khát được tháo cũi sổ lồng.
Ghìm nén và tung phá, ấy là xung lực đồng khởi của từng đoạn thơ. Nó cũng còn là cảm hứng của toàn bộ bài thơ nếu nhìn một cách vĩ mô tổng thể. Ngay sự đan cài giữa cái hôm nay và cái hôm qua, cái mất, cái còn, cái nhạt tẻ và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đều hỗ trợ cho nhau, soi chiếu vào nhau mà trở nên lấp lánh. Tuy nhiên, về cơ bản, bài thơ như một hoài niệm. Ngày xưa mới là cái đích cuối cùng, là cứu cánh. Cội rễ mà niềm say đắm hướng về không phải là hôm nay mà từ hôm nay hướng về hôm qua, về cái một đi không trở lại: "Nơi ta không còn được thấy bao giờ", "Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa". Tiếng nấc nghẹn ngào ấy hướng về cái phía rừng thiêng – nguồn cội của niềm tự hào khi "hầm thiêng" đang là bá chủ.
Phủ nhận cái trước mắt, cái hiện thời, lối thoát chỉ còn hai hướng: Trở về quá khứ hoặc ngưỡng vọng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, nó chỉ còn quá khứ. Đối lập hai vùng không gian ấy, cảm hứng lãng mạn trào dâng những giai điệu say mê. Quá khứ đã trở nên một vầng hào quang chói lọi khác thường do những tưởng tượng được đẩy lên đến mức tột cùng sảng khoái. Thơ mới nói riêng và chủ nghĩa lãng mạn nói chung đã tự tạo cho mình một miền đất, một khoảng trời riêng để tự do vùng vẫy. Cái lớn lao, cái dữ dội, cái phi thường trong màn sương bí ẩn lung linh, huyền ảo của quá khứ hiện ra có ý nghĩa giải thoát "một khối căm hờn" không tan của hiện tại. Ấy là một quá khứ rất đặc trưng của loài hổ: Cả thời gian, cả không gian, cả niềm nhớ tiếc cái thuở huy hoàng một đi không trở lại. Các yếu tố thuộc ngoại cảnh và thuộc nội tâm trên đây được nhào nặn lại nhằm khắc hoạ, làm nổi bật chủ thế trữ tình là nhân vật tự gọi là "ta" nhưng thực chất là "cái tôi" bừng thức, "cái tôi" trung tâm của một "thời oanh liệt". Cảnh rừng thiêng vì sao có lúc được gợi ra với "bóng cả, cây già", khi thì bóng tối âm thầm với "lá gai cỏ sắc", cả những cỏ hoa không tuổi không tên? Ba cung bậc của tự nhiên gắn với độ trường cửu, vĩnh hằng, với sự hoang dã, âm u và với cả một nền hoa cỏ vô danh nhằm tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải cúi đầu "Ta biết ta chúa tể cả muôn loài". Nhân vật thần thánh đường bệ, uy nghiêm ấy hiện ra bằng một bức tranh đặc tả, cả ngoại hình và sức mạnh bên trong ghê gớm. Một bước chân của loài hổ, một vũ điệu lượn vờn tự nhiên của nó không giống đồng loại, không giống một ai. Sự phong phú và nhất quán trong hệ thống động tác ngoại hình này là để chuẩn bị cho một phút cao trào khi tất cả trở thành sở hữu riêng của nó, do nó chế ngự:
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bơi trong dòng hoài niệm miên man không phải là vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: "Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ". Những câu thơ tám chữ vốn có dung lượng lớn hơn câu thơ thất ngôn được liên kết bằng những từ nối ở đầu nhịp, đầu câu chẳng phải là vô tình như những điệp khúc bắc cầu cho "tình thương nỗi nhớ" ấy dài ra:
Nhớ cành sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội…
Cũng đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba không giống với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi xót xa, nhớ tiếc (còn đoạn hai là đặc tả chân dung). Nỗi nhớ tiếc đến quặn thất nỗi lòng ấy tạo ra bởi ngữ điệu riêng. Những chữ "đâu" như xát muối cứ như kiếm tìm vào một hoang vắng, xa xôi đứng ở đầu câu để kết thúc bằng những dấu hỏi tu từ như oán than, như ngơ ngác:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối…
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn…
Đâu những bình minh…
Cũng là cái thực (trong quá khứ) với con hổ, nhưng từ đoạn hai, rồi đoạn ba, và kết thúc bằng đoạn năm, cái thực ấy cứ bị đẩy đi để mỗi lúc một xa hơn. Cảm xúc thơ mỗi lúc một chới với. Chỗ đứng thời gian không còn xác định nữa, câu thơ vội vàng, gấp gáp như níu kéo lại một chút gì đó của ngày xưa.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
27780
-
1 7642
-
2 7198
-
1 6931