Quảng cáo
3 câu trả lời 26
Cảm nghĩ về bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu
Bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu là một tác phẩm nổi bật trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam, mang đậm dấu ấn về tình đồng chí, tình chiến đấu, và sự hy sinh trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Được viết trong hoàn cảnh đất nước đang trải qua những gian khổ của cuộc chiến tranh ác liệt, bài thơ không chỉ thể hiện tình cảm sâu nặng giữa những người chiến sĩ mà còn ca ngợi sự gắn bó, đồng lòng, và tình yêu đất nước.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh những người chiến sĩ cách mạng gặp gỡ trong hoàn cảnh hết sức gian khổ. Chính Hữu miêu tả sự đồng điệu giữa hai người chiến sĩ qua hình ảnh "Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá." Những hình ảnh giản dị nhưng chân thật đó đã tạo ra một tình cảm gần gũi, thân thiết, gắn kết giữa những con người cùng chung lý tưởng, cùng chung một chiến đấu, chia sẻ những gian khó, vất vả.
Tình đồng chí được khắc họa trong bài thơ không chỉ đơn thuần là tình bạn hay tình thân, mà là tình cảm gắn kết trong chiến đấu. Các chiến sĩ không chỉ là những người bạn, mà còn là những người chiến đấu bên nhau, chiến đấu vì một lý tưởng chung – bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc. Chính Hữu đã sử dụng những hình ảnh cụ thể như "Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỷ," để thể hiện sự đồng lòng, sẻ chia, giúp đỡ trong mọi hoàn cảnh, từ đó thắt chặt thêm tình đồng chí.
Tình yêu thương, sự thấu hiểu lẫn nhau trong chiến tranh thể hiện rõ nét trong câu thơ "Đồng chí!" – một lời gọi giản dị nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc. Đây là lời gọi của một người chiến sĩ, không phải chỉ là sự xưng hô, mà là sự kết nối tình cảm giữa những con người cùng chiến đấu, cùng hy sinh. Những người đồng chí đã sống và chiến đấu với nhau, vượt qua mọi gian khó, mọi thử thách.
Bài thơ cũng thể hiện rõ sự hy sinh của những người lính, họ không chỉ chiến đấu để bảo vệ đất nước mà còn sẵn sàng đánh đổi tuổi trẻ, sức khỏe, và cả tính mạng của mình cho lý tưởng cao cả. Chính Hữu đã khắc họa được sự hi sinh ấy qua những dòng thơ giản dị, nhưng đầy cảm động.
Tóm lại, "Đồng chí" của Chính Hữu là một bài thơ mang đậm tính nhân văn, thể hiện tình đồng chí cao đẹp, tình yêu Tổ quốc và sự hy sinh trong chiến tranh. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc về tình đồng đội, về sức mạnh của lòng đoàn kết trong cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc. Cảm xúc trong bài thơ cũng khiến ta suy ngẫm về giá trị của tình bạn, tình đồng chí trong cuộc sống hôm nay, để chúng ta luôn biết trân trọng những tình cảm thiêng liêng và cao cả ấy.
"Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt" người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ "đôi người xa lạ" rồi "thành đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: "Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau". Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; "anh với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ" là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới "thành đôi tri kỉ". "Đôi tri ki" là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ "đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên.
Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính".
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: "Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình...", được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?. Hay "người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê huơng đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nén sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa.
"Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
…
(...) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"
Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men.... Người lính ra trận "áo vải chân không đi lùng giặc chinh", áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, "Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi":
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày..."
Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: "anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: "Miệng cười buốt giá" thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm lấy bàn tay". Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, "đi tới và làm nên thắng trận".
Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - hai đồng chí trong chiến dấu. Họ cùng "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang sương muối. Và, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng "chờ giặc tới", hai chiến sĩ vẫn "đứng cạnh bên nhau", vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
"Đầu súng trăng treo".
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông "rừng hoang sương muối" thì có "đầu súng trăng treo". Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. "Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ - Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh "chờ giặc tới". Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ."Đồng chí" là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.
Cảm nghĩ về bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu
Bài thơ "Đồng chí" của nhà thơ Chính Hữu được sáng tác trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp, là một tác phẩm đặc sắc thể hiện tình đồng đội thiêng liêng, sâu sắc của những người lính trong cuộc chiến đấu giành độc lập cho đất nước. Đọc bài thơ, tôi không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của tình bạn, tình đồng chí mà còn thấy được những hi sinh, gian khổ và niềm tự hào của những người chiến sĩ.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh những người đồng đội được khắc họa với sự gần gũi, thân thuộc. "Quân đội" trở thành "đồng chí", không còn là những người xa lạ mà là những người bạn cùng chung một lý tưởng, cùng chung một con đường. Câu thơ "Đầu súng trăng treo" đã tạo nên một hình ảnh đẹp, lãng mạn, đồng thời cũng là biểu tượng cho khát vọng hòa bình và ánh sáng; giữa không gian khốc liệt của chiến tranh, trăng vẫn sáng và tình đồng đội vẫn vững bền.
Chính Hữu đã thể hiện rất thành công nỗi vất vả, gian lao của người lính. Họ là những người trẻ, vừa mới trưởng thành, nhưng đã phải đối mặt với sự khốc liệt của chiến tranh. Câu thơ “Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá” không chỉ là sự thật phũ phàng về bộ trang phục mà còn là biểu tượng cho những khó khăn, thiếu thốn trong cuộc sống. Tuy nhiên, chính những điều đó lại làm cho tình đồng đội thêm phần gắn bó. Bởi lẽ, họ cùng nhau chia sẻ những mất mát, đau thương; cùng nhau vượt qua những thử thách, gian khổ.
Một trong những điều làm cho bài thơ "Đồng chí" trở nên đặc sắc chính là cách diễn đạt chân thực, gần gũi. Những hình ảnh cụ thể như "đầu súng", "trăng", "rách vai" ... gợi ra những cảm xúc mạnh mẽ về cuộc sống của những người lính. Bằng lối viết giản dị, mộc mạc, Chính Hữu đã mang đến cho người đọc cảm giác sự chân thành, giản dị nhưng lại vô cùng sâu sắc.
Không chỉ dừng lại ở tình đồng đội, bài thơ còn bộc lộ một niềm tin vững chắc vào tương lai. Mặc dù cuộc sống hiện tại đầy gian khổ, nhưng những người lính vẫn luôn hướng về một tương lai tươi sáng được xây dựng từ những hy sinh hôm nay. Họ hiểu rằng cái giá của tự do và độc lập là rất lớn, nhưng vẫn kiên cường, quyết tâm chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp của dân tộc.
Bài thơ "Đồng chí" không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một bản tuyên ngôn về tình yêu quê hương, đất nước. Nó nhắc nhở chúng ta về giá trị của tình bạn, tinh thần đoàn kết và sự hy sinh vì lý tưởng cao cả. Đọc "Đồng chí", tôi thấy mình như được hòa vào không khí của những ngày tháng lịch sử, thời kỳ mà mỗi người lính đều khao khát hòa bình và tự do.
Tóm lại, "Đồng chí" là một bài thơ đặc sắc mang đậm giá trị nhân văn, thể hiện những tình cảm sâu sắc và ý chí kiên cường của người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. Nó không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một thông điệp về tình người, tình đồng đội vững bền trong khói lửa chiến tranh. Bài thơ đã khắc sâu vào tâm trí của tôi, truyền đạt những cảm xúc mãnh liệt về sự hy sinh, tình yêu và lòng kiên định của người lính cách mạng.
Quảng cáo