Sơ đồ tư duy bài Thuế máu dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Thuế máu Ngữ văn lớp 8 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 8.

1 614


A/ Tác giả Tác phẩm bài Thuế máu

I. Tác giả

Nguyễn Ái Quốc là tên gọi khác của Bác Hồ khi mới sang Pháp (Ngày 18/6/1919 nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước, Bác phổ biến cuốn “Yêu sách của nhân dân An Nam” gồm tám điểu và được viết bằng tiếng Pháp, ký tên Nguyễn Ái Quốc. Từ đó Người dùng tên Nguyễn Ái Quốc. 

 II. Tìm hiểu chung về tác phẩm

1.Hoàn cảnh sáng tác

Văn bản được viết bằng tiếng Pháp vào khoảng những năm 1921-1925, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1925 tại Pháp, ở Việt Nam vào năm 1946.

2.Xuất xứ

Chương I- Trích “Bản án chế độ thực dân Pháp”

3.Thể loại: Văn nghị luận

4.Bố cục

- Phần 1: Chiến tranh và “người bản xứ”

- Phần 2: Chế độ lính tình nguyện

- Phần 3: Kết quả của sự hi sinh

5. Giá trị nội dung

Đoạn trích tố cáo bộ mặt giả dối, thủ đoạn của chính quyền thực dân Pháp trong việc biến người dân thuộc địa thành vật hy sinh cho lợi ích của chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa tàn khốc

6. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật đả kích, châm biếm sắc sảo, tài tình

- Lựa chọn và xây dựng hình ảnh mang ý nghĩa tố cáo

- Giọng điệu trào phúng đặc sắc

- Ngôn từ mang màu sắc châm biếm

- Thủ pháp tương phản, đối lập

B.Sơ đồ tư duy bài Thuế máu

Hỏi đáp VietJack

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý  phân tích bài Thuế máu

1. Chiến tranh và người bản xứ

* Thái độ của các quan cai trị thực dân Pháp đối với người dân bản địa

- Trước chiến tranh:

+ Gọi: tên da đen bẩn thỉu, những tên An-nam-mít bẩn thỉu

+ Chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn

⇒ Coi thường, nhục mạ, đánh đập tàn nhẫn

- Khi chiến tranh bùng nổ:

+ Gọi bằng các từ ngữ đẹp đẽ: con yêu, bạn hiền

+ Phong danh hiệu cao quý: Chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do

⇒ Tâng bốc, vỗ về, biến họ thành công cụ của chiến tranh

Nghệ thuật: Các từ trong dấu ngoặc kép hiểu theo nghĩa ngược lại⇒ Nhại lời của thực dân Pháp với giọng điệu mỉa mai, trào phúng

⇒ Thực dân Pháp: dối trá, lừa bịp, bỉ ổi

* Số phận của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa

- Những người đi lính:

+ Đột ngột xa gia đình, quê hương

+ Phơi thây trên các chiến trường…

+ Bỏ xác tại…miền hoang vu ...,

+ Đưa thân... tàn sát, lấy máu... tưới, lấy xương hiến

⇒ Bị biến thành vật hi sinh trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa

- Người ở hậu phương:

+ làm kiệt sức, nhiễm khí độc, khạc ra từng miếng phổi

⇒ Bệnh tật, chết đau đớn

- Kết quả: 8 vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương

 Bằng việc đưa số liệu cụ thể ⇒ Tố cáo mạnh mẽ tội ác của giặc, gợi lòng căm thù, phẫn nộ.

⇒ Số phận thảm thương, bị lợi dụng, bị bóc lột "Thuế máu"

2. Chế độ lính tình nguyện

* Các thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân

- Các thủ đoạn vũ lực, mánh khóe vô lí để bắt ép người dân Đông Dương đi lính và vơ vét của cải của họ:

 + Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân đi lính

 + Chúng dùng mánh khóe trấn lột của cải của người dân bằng luận điệu: muốn không đi lính thì xì tiền ra.

 + Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối.

⇒ Vô nhân đạo, không từ một thủ đoạn tàn ác, coi mạng người như cỏ rác.

- Giọng điệu xảo trá, đáng khinh khi chúng nói “các bạn đã tấp nập đầu quân…; không ngần ngại rời bỏ quê hương…”.

* Phản ứng của người dân

- Tìm mọi cách để trốn thoát khỏi vòng vây của bọn thực dân

- Sẵn sàng làm cho mình nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi nhưng cuối cùng vẫn bị chúng bóc lột, vơ vét không từ thủ đoạn.

⇒ Họ không hề tình nguyện như lời phủ toàn quyền Đông Dương đã công bố trước toàn thế giới.

⇒ Vạch trần thủ đoạn lừa bịp của chính sách mộ lính: cưỡng bức, bắt lính một cách dã man, tàn bạo.

3. Kết quả của sự hi sinh

- Chiến tranh kết thúc:

+ Những lời tuyên bố tình tứ bỗng dưng im bặt.

+ Những người bản xứ trở lại ''giống người hèn hạ''

⇒ Người bản xứ trở lại vị trí ban đầu

- Khi về:

+ Bị lột hết của cải; bị kiểm soát, đánh đập

+ Được chào đón bằng bài diễn văn: ... thế là tốt... cút đi

⇒ Sự hi sinh không mang lại kết quả tốt đẹp mà bị tước đoạt của cải, đánh đập tàn bạo, đối xử như với súc vật.

- Chính quyền cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh, vợ con tử sĩ người Pháp nhằm vơ vét, đầu độc

⇒ Chính sách thâm hiểm, độc ác

⇒ Lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước những tội ác của bọn thực dân, thái độ mỉa mai, châm biếm đến cực độ trước sựu gian xảo, bỉ ổi của chúng.

D. Bài văn phân tích bài Thuế máu

Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, cũng là viên ngọc trong văn học Việt Nam hiện đại. Ngòi bút của Người ngoài về thiên nhiên, về cách mạng còn hướng tới, quan tâm nhưng số phận bất hạnh, những người cùng khổ phải chịu bất công và khổ đau. Một trong những bản án mà Bác đưa ra để tố cáo những tội ác của thực dân, đó chính là Thuế máu – chương một trong Bản án chế độ thực dân Pháp.

Bản án chế độ thực dân Pháp của lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925 và xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục có tựa đề Gửi thanh niên Việt Nam, nội dung tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... đồng thời phản ánh tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới. Từ đó, bước đầu tác giả vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn để các dân tộc tự giải phóng, giành quyền độc lập.

Thuế máu là một cách đặt tên chương đầy ấn tượng, có sức biểu cảm, khơi gợi rất cao. Đây là một thứ thuế cực kì vô lí, một sự bóc lột tàn bạo, trắng trợn đến tận cùng sinh mạng của những người dân thuộc địa. Chiến tranh phi nghĩa đối với bọn đế quốc là một cách làm giàu nhanh nhất và bóc lột xương máu của những người dân thuộc địa mà chúng tự phong cái nghĩa vụ khai hoá, bảo hộ là con đường rẻ nhất. Đó là những cuộc chiến tranh mang lại lợi nhuận vổ cùng lớn. Bóc lột sức lực mồ hôi đã là một tội ác. Bóc lột xương máu lại là một tội ác lớn hơn. Bản chất độc ác ấy, lần đầu trên báo chí được phanh phui, bộ mặt của bọn thực dân hiện nguyên hình là những loài dã thú trong thời đại văn minh. Tính chất phản nhân loại ấy được lôi ra ánh sáng. Xương máu mà người dân thuộc địa phải trả cho các cuộc chiến tranh đế quốc thật la vô nghĩa. Sự lừa bịp của bọn thực dân không còn một thứ bình phong hay mĩ từ nào che giấu được.

Bài viết của Nguyễn Ái Quốc được chia thành ba phần. Đầu tiên là cái nhìn của tác giả về chiến tranh và người bản xứ. Trước những năm 1914, những người bản xứ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tân An- nam- mít. Trong mắt của những nhà cầm quyền, họ chỉ là giống người ngu dốt và hạ đẳng. Nhưng khi chiến tranh nổ ra, họ lập tức trở thành những đứa con yêu, những người bạn hiền của các quan cai trị, phụ mẫu nhân hậu. Họ được khoác lên cổ những danh hiệu cao quý và nhân hậu: chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do. Để trả giá cho cái danh dự đột ngột và hão huyền ấy, những người bản xứ phải đánh đổi bằng cái chết ở nơi đáy biển, vùng Ban- căng hoang vu, bên bờ sông Mác- nơ hay bãi lầy miền Săm-pa-nơ. Những kẻ không phải ra trận thì bị đầu độc trong những xưởng vũ khí giết người. Đó là những tội ác thực sự phía sau những danh từ mĩ miều kia. Giọng điệu châm biếm, mỉa mai bằng cách nhại lại những mĩ từ ấy đã vạch trần thủ đoạn lừa bịp, xảo trá, đáng ghê tởm trong quá trình khai hóa văn minh của chủ nghĩa thực dân. Việc sử dụng những con số cụ thể và biện pháp nói giảm, nói tránh khi nói đến sự mất mát làm nỗi đau ngày càng tăng lên. Dưới ách áp bức đó của bọn thực dân, số phận người dân thuộc địa rất bi thảm và đã được nhà văn miêu tả hết sức cụ thể bằng ngòi bút tài hoa của mình. Họ không được hưởng tí nào về quyền lợi đã thế họ còn phải đột ngột xa lìa vợ con, quê hương, phải làm việc cật lực trong những kho thuốc súng ghê tởm khạc ra từng tiếng phổi, họ phơi thây trên các chiến trường châu Âu, xuống tận đáy biển bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái, bỏ xác ở những vùng miền hoang vu ở Ban-căng, lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế. Kết quả là tám vạn người không bao giờ thấy mặt trời trên quê hương mình nữa. Nghe đến đấy là tự hỏi tại sao, bọn thực dân rốt cuộc có quyền gì mà lại có thể quyết định sống chết của hàng vạn người dân vô tội như thế? Những người dân bản xứ rốt cuộc cũng chỉ là vật hi sinh cho bạn cai trị thực dân. Đó chính là kiếp khổ đau của thân phận những người nô lệ. Tác giả đã vạch trần bộ mặt bỉ ổi của chủ nghĩa thực dân phản ánh số phận thảm thương của người dân thuộc địa.

Sau đó tác giả đã chỉ ra thủ đoạn mánh khóe của những bọn thực dân. Bọn thực dân tiến hành những cuộc lùng soát lớn trên toàn cõi đông dương và đủ các ngón xoay sở tinh vi nhất để đòi tiền. Chúng tìm đến những người khỏe mạnh những người này có thân cô thế cô chỉ chịu chết chứ không kêu cứu vào đâu được. Còn đối với những con cái nhà giàu thì họ ép cho một là đi lính hai là xì tiền ra. Đối với những người bị bắt đi lính thì một là họ bỏ trốn hai là tự làm cho mình nhiễm phải những căn bệnh nặng để không phải đi bởi đi lính đối với họ còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Khi đó để giải thích cho vấn đề này thì giọng điệu của chính phủ toàn quyền cũng rất bịp bợm. Chúng dùng sự hứa hẹn để lừa phỉnh người lính như ban phẩm hàm cho người sống sót truy tặng cho người hi sinh hay dùng những lời lẽ tán dương như các bạn đã tấp nập đầu quân đã không ngần ngại rời bỏ quê hương. Tất cả chỉ là những lời nói bịp bợm lừa phỉnh khi mà thực tế chúng xích trói bắt nhốt và đương nhiên bạo động nổ ra. Đây chính là những lời lừa dối mị dân. Tác giả mỉa mai những luận điệu chua chát ấy bằng những câu hỏi tu từ đầy sức thuyết phục “Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế tại sao có cảnh tốp thì bị xích tay điều về tỉnh tốp thì trước khi bị đưa xuống tàu bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn có cả lính gác canh lưỡi lê tuốt trần đạn lên nòng sẵn. Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa phải chăng là những cuộc biểu tình của sốt sắng đầu quân và không ngần ngại”. Bác đã lột trần bản chất tham lam và bạo tàn của chúng đối với người dân thuộc địa. Lập luận của Bác khiến cho toàn quyền Đông Dương cứng họng không thể trả lời.

Vậy thì, kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa cho các cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy như thế nào? Bọn thực dân đã đối xử như thế nào đối với những người đã ra chiến trường thay họ? Kết quả sự hi sinh của người lính thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách đối xử của chính quyền thực dân sau khi đã bóc lột xương máu họ đã được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh, chỉ tiết tiêu biểu có sức tố cáo rất lớn: “Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô" lẫn người "An nam-mít" mặc nhiên trở lại "giống người bẩn thỉu". Sau hi họ đã cống hiến xương máu của mình bảo vệ cho mẫu quốc thì lại bị chính mẫu quốc cướp nốt chút tài sản cuối cùng và bị đối xử tàn tệ. Khi trở về còn được chào đón bằng một bài diễn văn yêu nước- một thái độ xảo trá, trơ trẽn của chính quyền thực dân. Khi chiến tranh kết thúc, chính quyền thực dân đã phạm đến hai tội ác: vừa bóc lột xương máu của người dân thuộc địa, vừa cấp môn bài thẻ thuốc phiện cho thương binh và vợ tử sĩ để tiếp tục đầu độc cả một dân tộc và biến họ thành nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Đó cũng chính là bộ mặt nham hiểm, bỉ ổi của chủ nghĩa thực dân. Nhà văn đã sử dụng hàng loạt câu nghi vấn để lột trần được bộ mặt vô nhân đạo, tráo trở, tàn nhẫn và bản chất lừa dối, nham hiểm, độc ác, phi nhân tính của thực dân Pháp.

Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong, và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, bản chất tàn bạo của chính quyền thực dân xung quanh việc bóc lột thuế máu được phơi bày toàn diện và triệt để.

Với tư liệu phong phú xác thực giàu hình ảnh giá trị biểu cảm giọng điệu đanh thép ngòi bút trào phúng sắc sảo châm biếm mỉa mai làm tác phẩm như một lời tố cáo đanh thép nhất đối với chính quyền Pháp thuộc là đòn tấn công quyết liệt đối với chủ nghĩa thực dân. Đoạn trích cũng cho người đọc thấy được bộ mặt tàn ác nhẫn tâm cuồng thú của bọn thực dân khi dùng những người dân thuộc địa vô tội làm vật hi sinh cho chúng đồng thời cũng nói lên thân phận thảm hại nô lệ của những người dân An Nam. Bên cạnh đó tác phẩm cũng cho ta thấy tấm lòng thương cảm của Bác đối với thân phận những người dân và cũng khẳng định tài hoa khéo léo trong việc hành văn của Bác.

E. Một số lời bình về tác phẩm Thuế máu

1. Cuốn sách này (Bản án chế độ thực dân Pháp) là sản phẩm tổng hòa của tất cả các tri thức – chính trị, triết học, xã hội, lịch sử, văn học và kinh nghiệm thực tiễn – được thu, bồi bổ, phát triển trong quá trình đấu tranh đầy sóng gió của Người.

(Nguyễn Khánh Toàn, Lời giới thiệu cho tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp)

2. Bản án chế độ thực dân Pháp là một tác phẩm văn học mang tính khoa học chính xác, đanh thép, khách quan. Đó là những tài liệu lấy trong hồ sơ của bọn thống trị, đó là những con số, những bảng thống kê, những sự việc được báo chí tư sản thú nhận, tóm lại, những bằng chứng cụ thể, chỉ rõ tên tuổi nọn khai hóa đầu sỏ trong lịch sự nhục nhã của chế độ thực dân Pháp, với niên hiệu rành rọt, nơi chốn rõ ràng. Tác giả đã phân tích, tổng hợp những tài liệu, rút ra những kết luận khái quát, tạo thành một bản án kết tội hùng hồn và kịch liệt.

(Đỗ Đức Hiểu, Tạp chí văn học, số 4,1971)

Bài viết liên quan

1 614