Sơ đồ tư duy bài thơ Nhớ rừng dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Nhớ rừng Ngữ văn lớp 8 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 8.

736


A/ Tác giả Tác phẩm bài thơ Nhớ rừng

I. Tác giả

- Thế Lữ (1907- 1989), tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ

- Quê quán: Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội)

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

 + Ông là nhà thơ tiêu biểu trong Thơ mới (1932 - 1945)

 + Ngoài viết thơ, Thế Lữ còn viết truyện với nhiều thể loại như trinh thám, truyện kinh dị...

 + Ông cũng hoạt động trên lĩnh vực sân khấu, có công trong xây dựng ngành kịch nói ở nước ta

 + Được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000

 + Tác phẩm tiêu biểu: Bên đường Thiên lôi, Mấy vần thơ…

- Phong cách sáng tác: Thơ ông dồi dào, đầy lãng mạn, qua đó thể hiện những ẩn ý sâu sắc.

II.Tìm hiểu chung về tác phẩm

1. Thể loại: Thơ tự do

2. Xuất xứ:

Bài thơ được sáng tác vào năm 1934, lần đầu đăng báo, sau được in trong tập “Mấy vần thơ” (1935).

3. Bố cục

- Đoạn 1 + 4: Tâm trạng của con hổ trong vườn bách thú.

- Đoạn 2 + 3: Hoài niệm của chúa sơn lâm về một thời oanh liệt giữa chốn giang sơn hùng vĩ (quá khứ vàng son).

- Đoạn 5: Niềm khát khao tự do mãnh liệt.

4. Giá trị nội dung

- Bài thơ mượn lời con hổ nhớ rừng để thể hiện sự u uất của lớp những người thanh niên trí thức yêu nước, đồng thời thức tỉnh ý thức cá nhân.

- Hình tượng con hổ cảm thấy bất hòa sâu sắc với cảnh ngột ngạt tù túng, khao khát tự do cũng đồng thời là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước bấy giờ.

5. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ tự do hiện đại, phóng khoáng, dễ dàng bộc lộ cảm xúc

- Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công: nhân hóa, so sánh, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…

- Giọng điệu, nhịp thơ linh hoạt, khi thì buồn thảm, khi hào hùng, lẫm liệt, theo trình tự logic hiện thực – quá khứ - hiện thực – quá khứ…

- Mạch cảm xúc sôi nổi, thiết tha.

- Hình ảnh bay bổng, giàu chất tạo hình.

- Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm.

B.Sơ đồ tư duy bài Nhớ rừngHỏi đáp VietJack

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý phân tích bài Nhớ rừng

1. Hình ảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú (Khổ 1+ 4)

* Khổ 1:

-  Cuộc sống: Bị nhốt trong cũi sắt, trở thành đồ chơi cho đám người nhỏ bé mà ngạo mạn.

- Tù túng, tầm thường, chán ngắt.

- Tâm trạng căm hờn, phẫn uất tạo thành một khối âm thầm nhưng dữ dội như muốn nghiền nát, nghiền tan:

+ “Gậm”: dùng răng cắn từng chút một → không cam chịu, khuất phục mà hằn học, dữ dội, muốn bứt phá.

+ “Khối căm hờn”: niềm căm hờn, uất ức đã đóng vón lại thành khối, thành tảng không thể tan nguôi.

- “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể ⇒ Sự ngao ngán cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực

- “Khinh lũ người kia”: Sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (gấu, báo) tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng

⇒ Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức, ngao ngán

⇒ Tâm trạng của con hổ cũng giống tâm trạng của người dân mất nước, Căm hờn và phẫn uất trong cảnh đời tối tăm.

* Khổ 4:

- Cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa sang ⇒ đơn điệu, nhàm tẻ, tầm thường, giả dối.

⇒ Cảnh vườn bách thú là thực tại của xã hội đương thời, thái độ của con hổ chính là thái độ của người dân đối với xã hội đó.

2. Hoài niệm của chúa sơn lâm về một thời oanh liệt giữa chốn giang sơn hùng vĩ (Khổ 2+ 3).

* Khổ 2

- Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với bóng cả cây già đầy vẻ nghiêm thâm.

- Những tiếng gió gào ngàngiọng nguồn hét núi ⇒ Sự hoang dã của chốn thảo hoa không tên không tuổi.

⇒ Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao mạnh mẽ, bí ẩn thiêng liêng.

- Bước chân dõng dạc đường hoàng.

⇒ Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi, diễn tả vẻ uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại vừa uyển chuyển của vị chúa sơn lâm.

* Đoạn 3

Nào đâu ... ánh trăng tan ⇒ Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng thật lãng mạn.

Đâu những ngày ...ta đổi mới ⇒ Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng mạn ngắm giang sơn đổi mới.

Đâu những bình minh...tưng bừng ⇒ cảnh chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.

Đâu những chiều … mảnh mặt trời gay gắt ⇒ loài mãnh thú đợi màn đêm buông xuống nó sẽ là chúa tể muôn loài.

⇒ Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hoành tráng.

 ⇒ Nhớ rừng, tiếc nuối cuộc sống tự do, tung hoành giữa đại ngàn hùng vĩ.

3. Niềm khao khát tự do mãnh liệt (Khổ 5).

- Sử dụng câu cảm thán liên tiếp ⇒ lời kêu gọi thiết tha ⇒ khát vọng tự do mãnh liệt nhưng bất lực.

⇒ Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt.

⇒ Muốn thoát li khỏi cuộc sống hiện tại, đắm mình trong những mộng tưởng về một cuộc sống tự do, đích thực nơi rừng núi.

⇒ Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử.

D. Bài văn phân tích Nhớ rừng

Khát vọng tự do luôn là một đề tài được chú ý của các nhà thơ, nhất là trong hoàn cảnh đất nước lầm than. Có người tìm về một thời vang bóng như Nguyễn Tuân, Vũ Đình Liên, có người lại chọn gửi nỗi niềm vào những lâu đài cổ kính của đất nước Chiêm Thành hư thực. Còn Thế Lữ, ông lại chọn gửi tình yêu của mình vào lời con hổ trong vườn bách thú trong bài thơ Nhớ rừng.

Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ Nhớ rừng là một bài thơ hay, in trong tập Mấy vần thơ của ông. Tác phẩm đã mở đường cho sự thắng lợi của phong trào thơ ấy hồi đầu thế kỉ XX. Thông qua khắc hạo nỗi chán ghét cuộc sống thực tại tầm thường, tù túng của một con hổ khi bị nhốt trong cũi sắt ở vườn bách thú, bài thơ đã thể hiện khát vọng về một cuộc sống tự do.

Trước hết là tâm trạng uất hận của con hổ trong cảnh tù hãm ở vườn bách thú. Trong cái dáng dấp nằm dài hiền lành kia là một nỗi chán ngán đầy ẩn nhẫn trông ngày tháng dần qua. Nhưng sự thực đã được giới thiệu từ đầu: gậm một khối căm hờn... Hóa ra, đó là bi kịch của chúa sơn lâm - chúa tể của đại ngàn - vốn lừng lẫy; vốn là oai linh rừng thẳm đang sa cơ, nhục nhằn tù hăm, mất tự do. Nghe thế, chúng ta sẽ lầm tưởng rằng chúa sơn lâm đã bị khuất phục, đã trở nên hiền lành, không còn lồng lộn dữ tợn nữa, nếu chỉ thoáng qua bề ngoài của con hổ:

Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua.

Nào ai biết hổ đang Gậm một khối căm hờn trong cũi sắtgậm không phải là nhai ngấu nghiến mà là nghiến từ từ cho đến lúc nát ra. Sắt đâu phải dễ tan vỡ, khối căm hờn cũng không dễ nuốt trôi! Hổ hẳn là muốn phá tan mọi thứ đang vây hãm mình vì nỗi hận đang lên đến cao độ. Bằng cách đó con hổ muốn phá tan tất cả mọi thứ vì nỗi căm tức trong nó đang đến tột đỉnh. Nó căm tức vì bị giam cầm thì ít mà bị xếp ngang hàng với bọn gấu dở hơicặp báo vô tư lự thì nhiều. Tâm trạng nó lúc này còn là cảm thấy vô cùng nhục nhã với hoàn cảnh nó đang phải chịu đựng. Nhục nhã vì nó đường hoàng là chúa sơn lâm vậy mà lại bị tù hãm để làm trò lạ mắt thứ đồ cho người ngạo mạn, ngẩn ngơ. Với biện pháp nhân hóa, Thế Lữ đã làm rõ tâm trạng của con hổ khi ở trong tù, nổi bật là sự căm hờn uất hận và nỗi nhục nhã mà nó phải chịu đựng. Cay đắng hơn, từ địa vị chúa tể, giờ đây chỉ còn ở vị trí thấp hèn đồ chơi ngang hàng với bọn gấu dở hơi, bọn báo vô tư lự. Thật là nhục nhã! Thật là căm hận! Đại từ ta biểu hiện sắc thái kiêu hãnh, tự cao, tự đại, biết rõ giá trị của mình trong khi bọn tiểu nhân đang giễu cợt sự sa cơ của bậc anh hùng. Chính vì thế mà nỗi uất ức, căm hờn ngày càng đè nặng lên tâm hồn chúa sơn lâm.

Tiếp theo là nỗi khao khát tự do mãnh liệt thể hiện qua những hoài niệm về một núi rừng kì vĩ cùng sức mạnh vô biên của chúa tể rừng xanh. Từ ngục tù cũi sắt, con hổ đang thả hồn theo nỗi nhớ quê hương, nhớ núi rừng xa xưa với niềm nhớ tiếc:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi 

Với khi thét khúc trường ca dữ dội…

Cảnh chúa sơn lâm hiện ra sao mà uy linh, sao mà hùng tráng! Nó vừa có vẻ bí hiểm, hùng vĩ cổ kính và vừa rất dữ dội khiến người ta phải ghê sợ. Chỉ bằng một câu, cùng biện pháp so sánh, tác giả đã cho ta thấy vẻ đường hoàng dõng dạc, oai vệ của hổ:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng 

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Cái bước chân lên đó, cái thân hình uốn lượn đó chỉ có được ở chúa sơn lâm, cái uốn lượn vừa mềm mại, vừa nhanh lại vừa khỏe, ít thấy loài nào có thể làm được. Chắc hẳn rằng con hổ đang rất kiêu hãnh khi chân lên dõng dạc, đường hoàng khi lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, bởi nó biết nó là chúa tể của muôn loài, giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi. Trong niềm căm uất và đau đớn ấy, chúa sơn lâm đang nhớ về cuộc đời tự do, oanh liệt ngày xưa, những ngày xưa thật rực rỡ:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi.

Với khi thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng.

Tình thương, nỗi nhớ, xúc cảm ấy nối hai bờ không gian - thời gian, gắn nên quá khứ và hiện tại. Từ không gian là cũi sắt, hổ nhớ về không gian bao la rộng rãi và tự do, không gian rừng thẳm. Thiên nhiên đó kì vĩ phóng khoáng, đổi thay lên tục và vô tận trong bình minh, chiều tà và đêm xuống. Cảnh rừng hoang vu bóng cả, cây già chứa đựng những điều bí mật: hang tối, rừng sâu, thảo hoa không tên, không tuổi, hòa với những âm thanh man dại gió gào ngàn, nguồn hét núi cùng những màu sắc rực rỡ trong buổi nắng mai vàng, chiều đỏ tía và đêm đen huyền bí âm u. Phải chăng đó là bức tranh tứ bình với các cảnh đêm trăng, ngày mưa, sáng xanh, chiều đỏ, cả một không khí vừa dữ dội vừa oai nghiêm của rừng thẳm. Bút pháp lãng mạn thiên về cái cao cả, cái phi thường, tạo dựng một hình ảnh thiên nhiên thật kì vĩ. Đó là thiên nhiên trong cõi nhớ của hùm thiêng. Hổ kiêu hãnh:

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Trên cái nền thiên nhiên ấy, hổ hiện ra trong tư thế thật oai phong. Giữa khúc trường ca dữ dội của rừng thiêng tấu lên, hổ bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng. Nói về nỗi nhớ rừng của con hổ với trí tưởng tượng phong phú và con mắt nhìn của một họa sĩ tài ba, tác giả còn vẽ nên bức tranh bằng thơ giàu hình ảnh và tràn đầy màu sắc

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn 

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng 

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật

Chúa sơn lâm đang chế ngự thiên nhiên với tâm trạng tự hào, kiêu hãnh, nó chinh phục thiên nhiên, nhưng không phá phách, làm hư hại thiên nhiên. Bởi những đêm vàng bên bờ suối mang một vẻ huyền ảo, bởi những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn làm cho núi rừng như được thay áo mới, bởi cảnh thiên nhiên rất sống động vào buổi bình minh nhờ tiếng chim ca. Và:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng 

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt.

Có thể nói rằng hình ảnh những chiều lênh láng máu sau rừng và ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt là đẹp nhất, dữ dội nhất và tự hào nhất của chúa sơn lâm. Mặt trời là sự sống của muôn loài mà con hổ cũng coi khinh. Đó là thời điểm huy hoàng nhất, rực rỡ nhất, sự chiến thắng huy hoàng của chúa sơn lâm. Điệp ngữ đâu càng nhấn mạnh, xoáy sâu vào nỗi nhớ rừng của con hổ. Vừa là một chúa tể, hổ còn như một thi sĩ mơ màng đứng uống ánh trăng tan, như nhà hiền triết lặng ngắm giang san trong cơn mưa chuyển bốn phương ngàn, thành bậc đế vương có chim ca giấc ngủ ta tưng bừng. Hơn thế nữa, một vị chúa tể tàn bạo làm chủ bóng tối chiếm lấy riêng phần bí mật. Những hình ảnh và động tác đầy ấn tượng miêu tả cuộc sông tự do, thơ mộng và dữ dộiđầy quyền uy. Đấy là cảnh ngắm mưa, ngắm trăng, trời đất, thưởng thức đêm vàng trong im lặng kì ảo, quyến rũ, tận hưởng ban mai cây xanh nắng gội, cảnh! Đợi chiều xuống với hoàng hôn đỏ rực. Qua cảm nhận của chúa sơn lâm, ánh mặt trời hoàng hôn giống hệt sắc máu lênh láng: Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng?/Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt. Cùng trong hoài niệm của chúa sơn lâm, chỉ có một mặt trời xứng đáng có! Quyền uy ngang tầm với hổ. Thế mà chiều đến, mặt trời kia cũng dần đợi chết, cũng gục ngã, lênh láng máu sau rừng. Mặt trời chết, mặt trời cũng như một! Con thú hấp hối sau một cuộc đọ sức ghê gớm nhất, gay go nhất. Cách nhìn, cách nghĩ của chúa sơn lâm thật ngạo mạn. Mặt trời cũng không còn tồn tại, không còn giữ được ngôi vị cao cả. Khi màn đêm xuống, quyền uy của chúa sơn lâm là bao trùm vũ trụ, hổ vờn bóng, giẫm nát lá gai, cỏ sắc là đỉnh điểm.

Tất cả đều trong hoài niệm của hổ: rừng thiêng đang hòa tấu một khúc nhạc dữ dội để tôn vinh sức mạnh của chúa sơn lâm. Say sưa trong bản nhạc ca ngợi quyền uy và tự do trong dĩ vãng, mãnh hổ bỗng sực tỉnh và gào thét xót xa! Những chiến công của hổ chợt qua trong tâm trạng đầy thất vọng và nuối tiếc. Nhưng thời oanh liệt đó đã thuộc về dĩ vãng. Nó chỉ còn biết cất một tiếng than: Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?!". Càng căm uất cho số phận của mình lúc sa cơ thất thế, càng luyến tiếc về một quá khứ oai hùng, oanh liệt, con hổ càng tỏ một thái độ khinh bạc, coi khinh cuộc sống thực tại giả dối đang diễn ra xung quanh nó.

Cuối cùng là tâm trạng u uất, chán ngán trước sự giả tạo, đơn điệu của cảnh tù hãm. Càng thương nhớ vẻ đẹp cao cả dữ dội của rừng xanh tự do bao nhiêu, chúa sơn lâm càng căm hờn, chán ngán trước cảnh giả tạo, đơn điệu, tù túng ở vườn bách thú:

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi

Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng...

Tất cả mọi thứ đều do bàn tay con người. Đó là sự giả tạo, bắt chước vẻ đẹp của tự nhiên một cách vụng về. Đó không phải là cảnh rừng chân thật, tự nhiên và cao cả. Qua đó ta hiểu được tâm trạng của con hổ lúc này là khao khát một cái gì đó chân thật, tự nhiên, cao cả. Khinh bạc căm tức với hiện tại, nó lại khao khát trở về với núi non hùng vĩnơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa trở về với cuộc sống tự do. Nhưng đang bị giam cầm trong cũi sắt, chúa sơn lâm đành thả hồn mình theo giấc mộng ngàn để được sống lại những giờ phút huy hoàng thuở xưa, cố xua đi những ngày ảm đạm, ngao ngán của mình. Nhưng một sự thực, nó đang bị giam trong cũi sắt. Chúa sơn lâm đành thả hồn mình theo giấc mộng ngàn để được sống những phút oanh liệt, để xua tan những ngày ảm đạm ngao ngán của mình. Con hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua chính là vì chán ngán trước cuộc sống mà nó đang bị giam hãm, mất tự do. Tâm trạng của chúa sơn Lâm cũng là tuyên ngôn của chủ nghĩa lãng mạn, dứt khoát không chấp nhận cái tầm thường, cái vô nghĩa, sự bắt chước giả tạo. Càng ghét cay, ghét đắng thực tại giả dối bao nhiêu, chúa sơn lâm càng tiếc thương đau đớn nhớ về dĩ vãng bấy nhiêu. Hổ vẫn thả hồn về giang sơn cũ trong giấc mộng ngàn to lớn, giấc mộng về rừng thẳm, về tự do như một cõi thiên đường:

Hỡi cánh rừng ghê gớm của ta ơi!

Bài thơ khép lại bằng lời nhắn gửi da diết, khắc khoải, lời nhắn đó xoáy sâu vào tâm trí người đọc, khiến ta ám ảnh mãi về khao khát tự do, khát khao một cuộc đời tung hoành, không chỉ của riêng con hổ mà còn là của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.

Với cách tân táo bạo trong thể thơ, âm điệu phong phú, ngôn ngữ trong sáng, giàu chất tạo hình đã diễn tả chân thực hình ảnh và tâm trạng của con hổ. Hình ảnh con hổ trong vườn bách thú hay chính là hình ảnh của con người Việt Nam dưới cũi sắt vô hình của bọn thực dân? Nỗi niềm của hổ hay chính là tiếng lòng Thế Lữ, là tình cảm của biết bao nhiêu người con Việt Nam bấy giờ.

Người ta vẫn thường nói văn học phải bắt nguồn từ cuộc sống, phải phản ánh cuộc sống để từ văn học người đọc có thể nhìn thấy mọi sự ở đời. Nhớ rừng của Thế Lữ đã làm được điều ấy. Nhà thơ đã mượn lời của hổ để nói lên sự tù túng, ngột ngạt của chính mình cũng như của cả dân tộc Việt Nam trước bao xiềng xích nô lệ, trước tình cảnh khốn khổ cực cùng. Có thể nói, bằng thể thơ tự do cùng những hình ảnh thơ kì vĩ, tráng lệ, Thế Lữ đã xây dựng thành công hình ảnh một chúa sơn lâm đầy ám ảnh trong lòng độc giả.

E. Một số lời bình về tác phẩm Nhớ rừng

1. Nhiều người đã nói đến nội dung xã hội của bài thơ. Thậm chí có những lúc người ta đã cho rằng nội dung yêu nước mới là nội dung đích thực và đáng kể nhất của “Nhớ rừng”. Hướng lĩnh hội ấy đã ngày càng bộc lộ sự ấu trĩ của nó. Tâm trạng của chúa sơn lâm là một bi kịch. Không chỉ là bi kịch của một con hổ mà là bi kịch của thời đại ấy: bi kịch sống mòn Thế Lữ đã kí thác vào hình tượng con hổ - bị cầm tù trong cũi sắt giữa vườn bách thú vẫn ôm trong lòng “niềm uất hận ngàn thâu” vẫn “đương theo giấc mộng ngàn to lớn” … “Nhớ rừng” là nhớ tiếc Tự do. “Nhớ rừng” là nhớ tiếc “Thời oanh liệt”. Nhớ rừng là nhớ cái cao cả. Tất cả xuất phát từ phản ứng dữ dội với thực tại cầm tù trói buộc, thực tại tầm thường giả dối, thực tại vô vị, vô tích sự! Toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời mình là ở nơi rừng. Đánh mất rừng cũng là đánh mất mình. Hàng ngày cứ thấy mình bị tầm thường hóa đi mà bất lực. Khao khát rừng là khao khát được là mình! Đó chẳng phải là khát vọng của một cái tôi giải phóng đó ư?

(Chu Văn Sơn, “Tinh hoa thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm”, NXB Giáo dục, 1998)

2. “Nhớ rừng” vừa là khát vọng về thiên nhiên tự do, phóng khoáng, khát vọng làm chủ giang sơn, vừa là tiếng thở dài mang ý vị vĩnh biệt một thời oanh liệt. Nhưng “Nhớ rừng” cũng là tuyên ngôn không hòa nhập với thế giới giả tạo. Dù thời oanh liệt không còn nữa, dù nó đã một đi không trở lại thì con hổ vẫn mãi thuộc về thời đã mất ấy chứ không cam tâm làm đồ chơi, mua vui cho con người, không hòa nhập vào thời hiện tại.

Bài thơ cũng gửi gắm một tình cảnh yêu nước. Nhà phê bình văn học Lê Đình Kỵ viết: “Trong thơ ca lãng mạn 1932 – 1945 không nói tới tình yêu, không đi sâu vào những tình tự riêng mà gây được tác động mạnh, trước hết phải kể đến bài “Nhớ rừng” nổi tiếng của Thế Lữ. Chuyện con hổ ở vườn bách thú nhưng cũng là chuyện của con người phải sống trong tù ngục của chế độ cũ. Đọc những câu thơ của Thế Lữ, người ta rất dễ liên hệ với thân phận sống trong xiềng xích, bị tước mất tự do, bị trói buộc đủ đường thời Pháp thuộc. Cái quá khứ oai hùng của con hổ trước lúc bị giam cầm cũng rất dễ làm ta nhớ đến cái quá khứ của cha ông. Càng nhớ tới thời oanh liệt, càng thấy uất ức vì phải bị tù hãm, xung quanh toàn những cái nhỏ nhen, tầm thường. Đó là lời phân tích chí lí.”

(Trần Đình Sử, “Đọc văn, học văn”)

Bài viết liên quan

736