Sơ đồ tư duy bài Bàn luận về phép học dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Bàn luận về phép học Ngữ văn lớp 8 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 8.

630


A/ Tác giả Tác phẩm bài Bàn luận về phép học

I. Tác giả

- Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.

- Quê quán: làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh.

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

 + Ông từng làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học

 + Ông từng được vua Quang Trung viết thư mời giúp triều Tây Sơn, góp phần xây dựng đất nước về mặt chính trị

 + Những tác phẩm tiêu biểu: La Sơn tiên sinh thi tậpHạnh Am di văn

II. Tìm hiểu chung về tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

Nguyễn Thiếp làm quan một thời gian dưới triều Lê rồi về dạy học. Khi Quang Trung xây dựng đất nước đã viết thư mời ông giúp dân giúp nước về mặt văn hóa giáo dục, vì vậy tháng 8 năm 1971, Nguyễn Thiếp đã dâng lên vua bản tấu này

2. Xuất xứ

Trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8- 1971.

3. Thể loại: Tấu

4. Bố cục

- Phần 1: Từ đầu đến “điều tệ hại ấy”: Mục đích của việc học

- Phần 2: Tiếp đến “xin chớ bỏ qua”: Bàn luận về cách học

- Phần 3: Còn lại: Tác dụng của việc học

5. Giá trị nội dung

Bài tấu giúp ta hiểu được mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần xây dựng đất nước chứ không phải học để cầu danh lợi. Học tốt phải có phương pháp học đặc biệt học phải đi đôi với hành.

6. Giá trị nghệ thuật

- Bài tấu có cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ rõ ràng

- Ngôn ngữ giản dị, rõ ràng, ý tứ bộc lộ trực tiếp giàu sức thuyết phục

B.Sơ đồ tư duy bài Bàn luận về phép học

Hỏi đáp VietJack

Hỏi đáp VietJack

 

 

 

 

 

 

C. Dàn ý phân tích bài Bàn luận về phép học

1. Tác giả nêu lên mục đích chính của việc học

- Lựa chọn cách nói trực tiếp, không vòng vo, tác giả khẳng định mục đích chính của việc học là học đạo lí, học làm người bằng sự so sánh, liên tưởng đến hiện tượng có thật: ngọc không mài không thành đồ vật.

2. Phê phán những lối học sai trái, lệch lạc, không đạt hiệu quả

-Tác giả tiếp tục nêu thẳng thực trạng nền giáo dục nước ta từ khi lập quốc đã bị thất truyền. Các lối học ông đưa ra phê phán bao gồm:

+Lối học a dua, hình thức

+Lối học hòng cầu danh lợi

+Đặc điểm chung của cả 2 lối học này và những lối học tiêu cực khác là đều không quan tâm đến tam cương, ngũ thường, đến kiến thức thực học mà chỉ để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng.

+Kết quả của những lối học lệch lạc: Hỏng từ chúa đến quần thần đến dân chúng. Chính điều ấy là một trong những nguyên nhân khiến nước mất nhà tan, vận nước ngắn ngủi, đời sống nhân dân không thể phát triển, văn minh được.

3. Tác giả đề ra những phương pháp học đúng đắn, hiệu quả

-Mở rộng trường học, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân cả nước được đi học không kể giai cấp, tầng lớp.

-Về tư tưởng, đạo lí gốc thì nhất định phải theo Chu Tử.

-Về phương pháp học: học từ đơn giản đến phức tạp, tiến dần theo từng cấp học, học gắn liền với thực hành

D. Bài văn phân tích bài Bàn luận về phép học

Nguyễn Thiếp còn có tên khác là La Sơn Phu Tử, quê ông ở xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ nay thuộc Hà Tĩnh, ông là người đức trọng, tài cao được vua Quang Trung rất trọng và mời ra giúp nước. Trong thời gian giúp việc cho vua Quang Trung, ông đã viết bài tấu Luận học pháp. Bài tấu của ông có ba phần bao gồm: phần một bàn về “quân đức” – Đức của vua, phần hai bàn về “dân tâm” – lòng dân, phần ba bàn về “học pháp” – phép học. Đoạn trích Bàn luận về phép học là phần thứ ba này.

Bàn luận về phép học là đoạn văn trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8 - 1791. Vua Quang Trung từng mời Nguyễn Thiếp ra hợp tác với triều Tây Sơn nhưng vì nhiều lý do nên ông chưa nhận lời. Ngày 10/7/1791, vua lại viết chiếu thư mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân hội kiến vì có nhiều điều bài nghị. Lần này ông lòng vào Phú Xuân và dựa bàn quốc sự. Nhân lúc này, ông làm bài tấu bàn về ba việc mà bậc quân vương nên biết. Một là về quân đức: Mong bậc đế vương một lòng tu đức, lấy sự học vấn mà tăng thêm tài sản, hai là bài về dân tộc (lòng dân). Khẳng định "Dân là gốc nước, gốc vững nước mới mạnh", Ba là bàn về học pháp (phép học). Văn bản Bàn luận về phép học chính là nội dung thứ ba của bài tấu.

Trong đoạn trích, luận điểm đầu tiên Nguyễn Thiếp đưa ra mục đích chân chính của việc học. Tác giả sử dụng câu châm ngôn vừa dễ hiểu vừa tăng thêm sức mạnh thuyết phục: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Nhưng đạo ấy là gì? Ấy là cái đích của sự học vậy. Theo tác giả thì "Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người". Đạo dạy người ta về những mối quan hệ: hẹp thì với bản thân, trong gia đình, rộng ra là ngoài xã hội. Mối quan hệ ấy trong khuôn khổ của xã hội phong kiến không nằm ngoài khái niệm “tam cương”, “ngũ thường” quen thuộc. Tóm lại, học trước hết là học đạo làm người, học để “lập đức” cho mình, để “lập công” nghĩa là phải cống hiến tài năng cho xã hội. Đó là nền tảng của “chính học”, là cơ sở của một quốc gia nước mạnh dân giàu, xã hội thái bình, thịnh trị. Cách nhìn của tác giả đoạn văn có tầm chiến lược dài lâu vì nó đụng đến sự an nguy của xã tắc (tức đất nước).

Ở luận điểm thứ hai, phải khôi phục lại mục đích của nền “chính học”, tác giả không nhắc lại mục đích của việc học nữa, vì nó đã được xác định từ đầu. Đây là hiện tượng chìm đi của quan điểm trong lập luận. Vì vậy, nếu người đọc vô tình sẽ có cảm giác như là hẫng hụt, thấy thiếu đi một cái gì lẽ ra phải có. Thay cho việc nhắc lại mục đích chân chính của việc học, tác giả cần đến việc chấn hưng trên cơ sở ấy. Sự việc chấn hưng to lớn và cấp thiết được nhìn từ hai cấp độ: chiều rộng và chiều sâu. Về chiều rộng: cần mở mang thêm nhiều trường lớp, bằng nhiều hình thức, ở khắp mọi nơi, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người đi học. Quan điểm mà nay gọi là xã hội hoá giáo dục có hai cái lợi mà tác giả không nói rõ ra: một là nâng cao được dân trí và hai là lựa chọn được nhân tài. Đó là cái nền của “chính học”. Điều quan trọng nhất trong luận điểm thứ hai này là chấn chỉnh, sửa sang phép học - phương pháp học tập.

Theo Nguyễn Thiếp, việc học phải được bắt đầu từ những kiến thức có tính chất nền tảng. Và ông đưa ra các phương pháp học cụ thể. Phương pháp thứ nhất, học tuần tự tiến lên, từ thấp đến cao: "Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử". Phương pháp thứ hai, đó là học rộng, nghĩ sâu biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Với phương pháp này, Nguyễn Thiếp hướng dẫn người học một cách học đúng đắn, dễ nhớ kiến thức. Chúng ta thường mắc bệnh học nhiều, học tràn lan, nhưng cuối cùng lại không ghi nhớ được gì cả vì không biết nghĩ cho sâu, tóm cho gọn. Có như thế này thì người học mới có thể ghi nhớ được kiến thức của mình lâu và khoa học. Phương pháp thứ ba học phải biết kết hợp với hành. Nói theo quan điểm của Phu Tử đó là "theo điều học mà làm". Học không chỉ để biết mà còn để làm. Học đi đôi với hành là cách để hiểu và ứng dụng điều học có hiệu quả, điều đó khác với việc học chay, học vẹt, học lý thuyết suông, học một cách máy móc, sáo rỗng, có thể đọc nghìn cuốn sách "chữ chứa đầy bụng" nhưng khi bước vào đời thì ngu ngơ, rỗng tuếch, trở thành "thầy dở, thợ dốt". Vì không "học đi đôi với hành", vì không biết "theo điều học mà làm" nên nhiều người "đua học hình thức cầu danh lợi" như La Sơn Phu Tử chê trách.

Tóm lại, bằng lời tấu rất thẳng thắn và chân thành, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã nêu lên mục đích chân chính của việc học và thực trạng tiêu cực của việc học đang hiện hành cùng các phương pháp học tập đúng đắn. Những bài học mà Nguyễn Thiếp mang lại không chỉ có giá trị đối với đất nước trong xã hội phong kiến mà còn bổ ích đối với tất cả chúng ta trong mọi thời đại.

E. Một số lời bình về tác phẩm Bàn luận về phép học

"Học là gì ? Học tức là học những cái chưa biết để biết mà đem ra thực hành. Nhưng thực hành cái gì ? Thực hành ở đâu ? Đó là thực hành những gì thực tế trước mắt và còn để lại lợi ích cho đời sau nữa"

(Tế cấp bát điều - Tám việc cần làm gấp – Nguyễn Trường Tộ),

Bài viết liên quan

630