Sơ đồ tư duy bài thơ Đi đường dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy bài Đi đường Ngữ văn lớp 8 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 8.

1224


A/ Tác giả Tác phẩm bài thơ Đi đường

I. Tác giả

- Hồ Chí Minh (1890- 1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung

- Quê quán: làng Kim Liên (làng Sen), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

 + Là vị lãnh tụ kính yêu của nước Việt Nam

 + Sau 30 năm bôn ba nước ngoài, Bác trở về trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước

 + Không chỉ có sự nghiệp cách mạng, Người còn để lại một số di sản văn học quý giá, xứng đáng là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc.

- Phong cách sáng tác: Thơ Bác hay viết về thiên nhiên đất nước với tình yêu tha thiết, niềm tự hào, lời thơ nhẹ nhàng bay bổng lãng mạn.

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Tháng 8 năm 1942, Nguyễn Ái Quốc vượt biên giới sang Trung Quốc để liên hệ với cách mạng và các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc. Bác đến thị trấn Túc Vinh thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt.

- Trong thời gian mười bốn tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trái phép, Bác Hồ thường xuyên bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác khắp mười ba huyện của tỉnh Quảng Tây. Tay bị cùm, chân bị xích, đi trong sương gió lạnh buốt thấu xương hay trong nắng trưa đổ lửa. Vượt dốc, băng đèo, lội suối ... với những khó khăn thử thách nhiều lúc tưởng quá sức chịu đựng của con người.

- Từ thực tế đó, tác giả đã khái quát thành "Đi đường".

2. Xuất xứ

Bài thơ số 20 trong tập thơ Nhật kí trong tù.

3. Thể thơ:

- Phiên âm: Thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật

- Dịch thơ: lục bát

4. Bố cục: 2 phần

Phần 1: Câu 1,2: Hành trình đi đường núi gian lao

Phần 2: Câu 3,4: Niềm vui sướng khi được đứng trên đỉnh cao của chiến thắng

5. Giá trị nội dung

- Bài thơ khắc họa chân thực những gian khổ mà người tù gặp phải, đồng thời thể hiện thể hiện chân dung tinh thần người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh, nói lên ý nghĩa triết lí cao cả: từ việc đi đường núi mà hiểu được đường đời: Vượt qua gian lao thử thách sẽ đi được tới thắng lợi vẻ vang.

6. Giá trị nghệ thuật

- Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật

- Kết cấu chặt chẽ

- Giọng điệu thơ biến đổi linh hoạt

- Hình ảnh sinh động, giàu ý nghĩa.

B.Sơ đồ tư duy bài Đi đường

Hỏi đáp VietJack

Hỏi đáp VietJack

C. Dàn ý bài phân tích bài Đi đường

1. Hành trình đi đường núi gian lao

- Cách nói trực tiếp: đi đường – gian lao: tự bản thân phải được thực hành, được trải nghiệm thì mới hiểu được tính chất sự việc.

- Điệp từ “núi cao” thể hiện sự khúc khuỷu, trùng trùng điệp điệp những ngọn núi nối tiếp nhau.

⇒ Suy ngẫm về sự khổ ải, khúc khuỷu, đầy trắc trở của cuộc đời; ý chí, nghị lực sẵn sàng vượt qua tất cả.

2. Niềm vui sướng khi được đứng trên đỉnh cao của chiến thắng

- “lên đến tận cùng”: chinh phục được độ cao của núi

→ Niềm vui khi vượt qua khó khăn để lên đến tận cùng đỉnh núi.

⇒ Mọi gian khổ rồi sẽ kết thúc, mọi khó khăn sẽ lùi về sau.

- “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”: người đi đường đứng trên đỉnh núi có thể tự do đứng ngắm nhìn mọi cảnh vật bên dưới, ngắm lại những gì mình đã trải qua.

→ Phong thái ung dung làm chủ thiên nhiên, hòa mình vào vũ trụ bao la, rộng lớn.

⇒ Nghị lực, phong thái lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ cộng sản trên đỉnh cao của chiến thắng, dù đó là con đường đầy ải, chân tay bị trói buộc bởi xiềng, xích.

⇒ Từ việc đi đường, bài thơ khẳng định một chân lí đường đời đó là: vượt qua được gian lao sẽ đến được đỉnh cao của chiến thắng.

D. Bài văn phân tích bài Đi đường

M.Goóc-ki từng nói “Kì lạ thay con người!”. Con người đến với cuộc đời và khẳng định sự tồn tại của mình bằng chính ý chí, nghị lực và một trái tim bao la. Đường đời với biết bao thử thách chính là lửa thử vàng để vàng càng sáng. Trong tập thơ Nhật kí trong tù, ta luôn bắt gặp một con người như thế. Bài thơ Đi đường cũng giống như những bài thơ chuyển lao khác như: Đi Nam Ninh, Chiều tốiGiải đi sớm, … không chỉ diễn tả nỗi gian nan của người tù trên bước đường chuyển lao mà hơn hết thể hiện một thái độ mang tính chất triết lí trước những chặng đường đời đầy thử thách và phong thái của một con người có tầm vóc cao cả.

Bài thơ Đi đường được rút ra trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ năm 1942 và phải chịu cảnh đày ải hết nhà lao này tới nhà lao khác, vất vả, gian lao vô cùng. Bài thơ không chỉ dừng lại ở bức tranh tả cảnh núi non trên đường chuyển lao mà ẩn chứa trong đó còn chất chứa tư tưởng triết lí đường đời sâu sắc mà Bác đã đúc kết, chiêm nghiêm được từ trong hoàn cảnh đặc biệt này: vượt qua gian lao chồng chất sẽ đi tới thắng lợi vẻ vang.

Câu thơ đầu tiên Bác dành để nói về việc đi đường. Nhưng không phải là lời kêu than của một người đã trải qua biết bao chặng đường chuyển lao mà nó như một lời khẳng định, suy ngẫm bằng sự trải nghiệm thấm thía của chính người đi đường:

Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng

Câu thơ như một triết lí của con người từng trải. Có đi đường, có trải qua những khó khăn vất vả trên những chặng đường mới thấm thía được nỗi gian nan, mới biết gian khổ là gì. Bài học này không có gì là mới lạ nhưng phải bằng chính những thử thách, trải nghiệm của bản thân mới có sự nhận thức sâu sắc được như vậy. Câu thơ giản dị mà chứa đựng cả một chân lí hiển nhiên. Trùng san chi ngoại hựu trùng san điệp từ “trùng san” như mở ra trước mắt người đọc cả một con đường gập ghềnh những dãy núi, càng nhấn mạnh sự trải dài như vô tận, không dứt hết lớp núi này đến lớp núi khác. Con đường đó dường như đối lập với sức người, vắt cạn sức lực của con người. Phải vượt qua con đường như thế mới có thể thấu hiểu được cái chân lí tưởng chừng như giản đơn: “Đi đường mới biết gian lao” mà Bác đã nói ở trong câu thơ đầu.

Hai câu thơ chỉ đơn giản nói chuyện đi đường vất vả, không hề trực tiếp miêu tả hình ảnh người đi đường. Nhưng ta vẫn thấy hình ảnh người đi đường xuất hiện. Con người ở đây không phải xuất hiện trong trạng thái thảnh thơi ngồi ngắm quãng đường với trập trùng những núi, không phải lữ khách du ngoạn để ngắm cảnh non sông, mây trời mà là một người tù đang phải trên đường chuyển lao. Vai đeo gông, chân mang xiềng xích, đói khát phải vượt qua bao đèo cao, dốc sâu, vực thẳm, qua những con đường núi non hiểm trở. Chữ “hựu” đứng giữa hai câu thơ dịch không chỉ diễn tả sự nối tiếp của núi non mà còn diễn tả sự vất vả của người tù. Chưa hết con đường này thì con đường núi khác đã hiện ra trước mắt, chưa hết khó khăn này thì một khó khăn khác lại ngáng trở phía trước. Thế nhưng, câu thơ không phải là tiếng thở dài, là lời than thở của người đi đường, mà chỉ là chân lí của người chiến sĩ cách mạng đúc rút được trên con đường chuyển lao, trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.

Hai câu thơ tiếp theo làm người đọc sửng sốt. Nếu như hai câu thơ đầu là chân lí, thì hai câu thơ sau bỗng vút lên nhẹ nhàng:

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Câu thơ thứ ba không chỉ dừng lại ở việc tả núi cao rồi lại núi cao trập trùng mà con đường đi đã được đẩy lên đến tột cùng khó khăn, hiểm trở “lên đến tận cùng”. Câu thơ dường như là một sự reo vui của người tù khi đã vượt qua được hàng ngàn núi cao, dốc sâu để lên được tới đỉnh núi cao nhất, tận cùng nhất. Ta như bắt gặp ở đây một chủ đề quen thuộc đăng cao và một phong thái mang cảm giác vũ trụ của con người: Đăng cao, viễn vọng. Khi lên đến đỉnh núi cao rồi, cũng là lúc con người ta có thể phóng tầm mắt bao quát và chiếm lĩnh cả một khoảng không bao la, như làm chủ vũ trụ, đất trời. Con người khi đó như trong tư thế của một người chiến thắng. Con người tự nhiên như được tạo một dáng vẻ hiên ngang, ngạo nghễ giữa một vũ trụ bao la như một du khách dạo chơi nhàn tản giữa non nước mây trời. Trong tư thế đó, con người như một “tiên ông đạo cốt”. Những khó khăn của đường đi không thể cầm tù, giam hãm được con người trong những dãy núi. Con người như đang cố gắng vươn lên làm chủ chặng đường của mình.

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Câu thơ cuối là đỉnh điểm của cảm xúc. Có niềm vui khôn xiết của một con người đã vượt qua được bao khó khăn, khổ ải để có thể tận hưởng được cảnh nước non mây trời. Tưởng chừng như mọi khó khăn đều lùi xa, chỉ còn lại một con người làm chủ thiên nhiên, đất trời với phong thái ung dung, tự tại đầy lạc quan. Đến đây đất trời và con người như hòa làm một. Bài thơ vút lên trong một niềm cảm hứng lãng mạn.

Đi đường là một bài thơ ngắn nhưng chứa đựng một bài học lớn lao, nói về con đường có thực trong những năm tháng tù đày, chuyển lao hết nhà lao này đến nhà lao khác. Nhưng hơn hết, nó không chỉ đơn giản chỉ là con đường thật với núi non hiểm trở. Đó còn là con đường với biết bao chông gai thử thách. Những khó khăn đó không thể làm cho con người lùi bước. Bài thơ như một niềm tin sắt đá. Đường đời dù có gian nan, vất vả đến đâu nhưng chỉ cần con người kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm vượt qua cuối cùng sẽ đến đích. Khi đó con người sẽ lên được tới đỉnh cao của vinh quang, trí tuệ và làm chủ được những giá trị đích thực của cuộc sống.

Trong cuộc đời hoạt động, Bác đã đến nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người. Mỗi nơi, mỗi người đều giúp Bác thêm kiến thức, kinh nghiệm. Khi đã vượt qua tất cả những ngọn núi thấp để đến đỉnh ngọn cao nhất: vượt qua khó khăn lớn lao nhất thì… đạt đến thành công. Hình ảnh kỳ vĩ: con người với thân hình nhỏ bé đứng trên đỉnh cao của ngọn núi vĩ đại: một bức tranh thật hào hùng; thành công ấy thật vinh quang. Vượt qua khó khăn lớn nhất sẽ thấy rõ đường đời cái gì là trắc trở, cái gì là hạnh phúc, bình yên:

Muốn thế, cần phải có tâm và trí…

Ngày trước, Nguyễn Bá Học cũng đã từng mượn hình ảnh đi đường để nhấn mạnh vai trò nghị lực của con người rằng: Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông…. Rồi cụ Phan Bội Châu cũng đã từng nhắc nhở: Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả/ Anh hùng hào kiệt có hơn ai thì nay lại có thêm Hồ Chí Minh. Mang nội dung giáo dục tư tưởng chính trị nhưng không khô khan bởi biết mượn hình ảnh sự việc để bộc lộ tâm tư của mình. Đúng là thơ của một danh nhân văn hóa của cả thế giới.

Bài thơ Đi đường không đơn giản dừng lại ở việc nói tới chuyện đường đi khó mà hình ảnh núi cao trập trùng còn biểu tượng cho sự khó khăn vất vả trong hành trình cuộc sống và hành trình cách mạng. Người chiến sĩ cách mạng phải trải qua rất nhiều chông gai thử thách nhưng khi đã nếm đủ những trái đắng đó thì sẽ gặt hái được thành công, sẽ đem lại thắng lợi rực rỡ. Và đường đời cũng thế. Khi con người đã vượt qua thách thức thì sẽ đem lại kết quả xứng đáng, tạo nên những giá trị cao đẹp, bất tử, thiêng liêng. Bài thơ Đi đường ngắn gọn mà ý thơ mênh mang, gợi cho người đọc nhiều bài học ý nghĩa triết lí sâu sắc.

E. Một số lời bình về tác phẩm Đi đường

Nhà thơ Hoàng Trung Thông cảm nhận về bài “Đi đường ” của Bác và “Lên lầu Quan Tước ” của Vương Chi Hoán – Trung Quốc rất xác đáng. Dưới đây xin được trích dẫn bài viết của nhà thơ Hoàng Trung Thông.

Bài thơ tất nhiên là dịch chưa thật hay so với nguyên văn. Nhưng ngay trên bản dịch này, ta cũng thấy được bước khó khăn của người đi đường: hết núi cao này lại đến núi cao khác rồi lại núi cao nữa. Nhưng khi đến đỉnh cao nhất thì sẽ thu được muôn trùng núi sông vào trong tầm mắt của mình.

Đem so sánh bài thơ đó với bài thơ “Lên lầu Quan Tước’’ của Vương Chi Hoán (Trung Quốc):

Mặt trời tắt sau núi

Sông Hoàng vào biển sâu

Muốn nhìn xa vạn dặm

Lên nữa một tầng lầu.

Mà các nhá thơ nhiều thời đại khen ngợi là tuyệt vời thì ta thấy tư tưởng khác nhau một trời một vực. Một bên là leo mãi cho đến muôn trùng núi thì sẽ thu vào tầm mắt tất cả núi sông. Một bên là muôn thấy ngàn dặm thì bước lên một tầng nữa. Người phải đi khắp núi non mối đạt được mục đích, người chỉ cần bước lên một tầng lầu. Một người là phấn đấu, một người là hưởng thụ.

Bài thơ “Đi đường” chính là bằng nghệ thuật thơ tuyệt diệu đã biểu hiện tư tưởng của Bác: “Cách mạng phải lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Mục tiêu là thu lại non sông vào trong tầm mắt nhưng phải qua hết chặng đường gian khổ này đến chặng đường gian khổ khác.

(Hoàng Trung Thông

Bác Hồ là thơ và thơ của Bác – Báo Văn nghệ số 35 – 1976)

Bài viết liên quan

1224