Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính tự sự

Bộ tài liệu Văn mẫu lớp 7 gồm 500 bài văn mẫu hay nhất, đầy đủ nhất. Dưới đây là bài văn mẫu Cảm nhận về bài:  Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính tự sự  ngữ văn lớp 7 được biên soạn mới nhất giúp các bạn học sinh học tốt môn văn 7 hơn.

329
  Tải tài liệu

Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính tự sự

Bài văn mẫu - Bài thơ Lượm

   Chiến tranh đã qua đi từ lâu nhưng mỗi lần nhìn hình ảnh những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ bao nhiêu kí ức về chú bé Lượm lại ùa về trong tôi. Lượm là chú bé đáng yêu, hồn nhiên mà cũng đầy dũng cảm tôi đã tình cờ gặp ở Hà Nội.

   Tôi còn nhớ hôm ấy là vào một buổi chiều cuối thu, những năm đó cả nước đang sục sôi chiến đấu chống lại các cuộc tiến đánh của thực dân Pháp. Già trẻ lớn bé không phân biệt tuổi tác mỗi người đều ý thức được trách nhiệm của mình, chiến đấu anh dũng. Tôi đang trên đường đến nơi họp thì bỗng va phải một chú bé cũng đang đi vội vàng theo hướng ngược lại. Cú va đã khiến chú bé ngã và bị xước một ít ở chân. Chú bé nhanh chóng đứng dậy và nói:

   - Xin lỗi chú, cháu đi nhanh quá nên không để ý.

   Thật là một chú bé đáng yêu và lễ phép. Tôi đưa đứa trẻ ngồi vào phía góc hè. Hai chú cháu ngồi nói chuyện, hỏi han chú bé tôi được biết chú bé tên Lượm làm nhiệm vụ liên lạc. Đến lúc này tôi mới để ý kĩ: chú bé người nhỏ nhắn, cái trán rộng và đôi mắt sáng, tinh anh thể hiện sự thông minh. Lượm đội chiếc ca lô lệch về một bên trông thật đáng yêu, tinh nghịch, ngộ nghĩnh. Bên sườn là chiếc xắc dùng để đựng các văn kiện giấy tờ. Sau một hồi nói chuyện tôi và Lượm trở nên thân thiết hơn. Chú bé thật hồn nhiên kể về công việc của mình:

   - Cháu làm liên lạc đã được vài năm rồi. Làm liên lạc ở đồn Mang Ca cháu được mọi người yêu quý, cưng chiều, lại được đi nhiều nơi nên thích hơn ở nhà cơ chú ạ.

   Rồi cậu nở nụ cười giòn tan, đôi má ửng đỏ như quả bồ quân khiến tôi không thể không quý mến chú bé đáng yêu này. Cứ như vậy tôi cùng Lượm nói chuyện và chia sẻ với nhau rất nhiều điều. Bỗng cả hai chú cháu chợt nhớ ra nhiệm vụ của mình nên tôi và Lượm tạm biệt nhau rồi đi. Lượm như chú chim nhỏ, vết thương mới đó mà đã lành, chú bé nhảy nhót như chim chích, tôi chờ cậu bé khuất hẳn rồi mới vội vàng đến cuộc họp. Bẵng đi một thời gian bận bịu với nhiệm vụ, tôi không còn chú ý nhiều đến tin tức của Lượm nữa. Nhưng hôm ấy vào một buổi chiều khi đang ngồi đọc báo tôi bất ngờ nhận được tin dữ Lượm đã hi sinh. Tin đó như sét đánh ngang tai, tôi không thể và không dám tin vào những điều mà mình vừa nghe.

   Tôi được đồng đội kể lại rằng trên đường đi làm nhiệm vụ, trong một trận càn quét lớn của địch, Lượm vẫn anh dũng băng qua quãng đồng vắng vẻ nhằm đem văn kiện kịp thời cho quân ta. Nhưng do một phút sơ sẩy không để ý mà trúng vào vùng địch xả súng nhiều, Lượm đã anh dũng hi sinh. Khi mất, đôi bàn tay nhỏ nhắn của em vẫn năm chắc bông lúa và cái xắc vẫn giữ chặt bên mình. Sự ra đi của Lượm là một mất mát lớn với tôi với tất cả những người yêu quý chú bé.

   Cho đến tận bây giờ khi bất chợt nhớ về Lượm tim tôi vẫn nhói đau. Lượm quả là một cậu bé dũng cảm, gan dạ. Sự hi sinh anh dũng của cậu và rất nhiều người như Lượm đã mang lại hòa bình, độc lập cho đất nước. Giá không có những cuộc chiến tranh kia, em đã được sống trong một gia đình yên ấm, được đi học như bao bạn nhỏ khác. Lượm là tấm gương anh dũng để mỗi thế hệ sau răn mình, học tập thật tốt báo đáp thế hệ trước và xây dựng đất nước giàu mạnh.

Bài văn mẫu 1 - Bài thơ Lượm

   Năm 1946, thực dân Pháp trở mặt xâm lược nước ta một lần nữa. Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, động viên nhân dân quyết hi sinh để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do chúng ta đã phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Từ Hà Nội, tôi trở về quê hương, đúng lúc gặp giặc Pháp tấn công vào Huế. Không khí những ngày đó thật sôi sục. Người dân xứ Huế không phân biệt già trẻ, gái trai, đồng lòng đánh giặc, bảo vệ quê hương.

   Đang rảo bước trên đường Hàng Bè, tôi chợt nghe tiếng gọi vô cùng quen thuộc: "Ôi chú Lành! Chú về hồi nào vậy?". Tôi ngẩng lên nhìn. Một chú bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca nô đội lệch, trông mới tinh nghịch làm sao. Cháu cười, phô hàm răng trắng đều, sải bước thật nhanh về phía tôi, hai tay dang rộng, chiếc xắc cốt nhún nhảy trên lưng theo nhịp bước.

   Ồ! Lượm! Đứa cháu bé bỏng của tôi! Xa cháu chưa lâu mà tôi thấy cháu khác trước nhiều quá! Cháu chững chạc hẳn lên, trông như một anh bộ đội thực thụ. Tôi ôm chặt Lượm vào lòng, vội vã hỏi thăm về những người thân. Cháu vui vẻ khoe:

   - Cháu làm liên lạc. Ở với các chú bộ đội trong đồn Mang Cá, cháu được các chú ấy dạy chữ, dạy hát, dạy bắn súng, dạy cách làm việc... Vui lắm chú à!

   Lượm hào hứng kể rồi cười thích thú, mắt sáng ngời, đôi má ứng đỏ như trái bồ quân chín. Tôi cũng vui lây trước niềm vui trẻ thơ, hồn nhiên của Lượm. Cháu giơ tay lên mũ, đứng nghiêm chào tôi: "Thôi, chào đồng chí!" kèm theo nụ cười tinh nghịch. Tôi đứng lặng nhìn theo bóng cháu đang thoăn thoắt nhảy chân sáo trên đường. Tiếng huýt sáo vui vẻ của Lượm vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôi rất vui vì Lượm đã trở thành đồng đội của tôi, một đồng đội tí hon.

   Ngày tháng trôi qua, hai chú cháu tôi chiến đấu trên hai mặt trận khác nhau. Vào một ngày hè tháng sáu, tôi bàng hoàng khi nhận được tin Lượm đã hi sinh trong một trận tấn công đồn giặc. Giữa lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, Lượm nhận nhiệm vụ chuyển thư thượng khẩn ra mặt trận. Trong lửa đạn mịt mù, cháu lao lên như một mũi tên, không sợ hiểm nguy, quyết trao tận tay người chỉ huy trận đánh lệnh của cấp trên. Một viên đạn thù đã bắn vào cháu. Lượm ngã xuống trên quê hương, giữa đồng lúa thơm mùi sữa lên đòng. Lượm đã hi sinh ngay trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Cháu ra đi mãi mãi, để lại niềm thương cảm khôn nguôi trong lòng tôi...

   Mỗi khi nghĩ đến Lượm, trong tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh một chú bé loắt choắt, vai đeo chiếc xắc cốt đựng tài liệu, đầu đội lệch chiếc mũ ca lô, miệng huýt sáo vang, vừa đi vừa nhảy chân sáo trên con đường chan hòa ánh nắng.

Bài văn mẫu 2 - Bài thơ "Đêm nay Bác không ngủ"

   Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Cao – Bắc – Lạng (còn) gọi là chiến dịch Biên giới) nhằm phá vỡ phòng tuyến bao vậy căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, mở đường liên lạc giữa nước ta với các nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô,... Quân ta chuẩn bị lực lượng tương đối kĩ, có sự phối hợp chặt chẽ trên các chiến trường để giành thắng lợi.

   Trước khi chiến dịch mở màn, Bác đến thăm một đơn vị bộ đội và nghỉ lại nơi chú quân. Đêm mưa, trời lạnh, chiến sĩ ngủ quây quần bên Bác. Riêng Bác không ngủ. Nồi người ngồi bên đống lửa, hai tay bó gối, đôi mắt trầm ngâm, những vết nhăn như sâu hơn trên vầng chán rộng.

   Đêm đã khuya. Cảnh vật chìm trong bóng tối. Thỉnh thoảng văng vẳng đâu đó tiếng vỗ cánh của loài chim ăn đêm. Tiếng mưa rơi tí tách trên mái lán. Đồng đội của tôi đang ngủ say sau một ngày hành quân vất vả. Tôi trở mình, quay mặt về phía đống lửa và lặng lẽ nhìn Bác – người Cha già kính yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam. Bác khơi cho bếp lửa cháy bùng lên, hơi ấm tỏa khắp căn lều dã chiến. Rồi Bác đi dém chăn cho từng chiến sĩ. Bác coi trọng giấc ngủ của bộ đội nên nhón chân rất nhẹ nhàng, cố gắng không gây ra tiếng động. Bác ân cần săn sóc các chiến sĩ, không khác gì người mẹ hiền thương yêu lo lắng cho đàn con.

   Tôi dõi theo từng cử chỉ của Bác mà lòng trào lên tình cảm yêu thương và biết ơn vô hạn. Ánh lửa bập bùng in bóng Bác lồng lộng trên vách nứa đơn sơ. Tình thương của Bác đã sưởi ấm chiến sĩ trước giờ ra trận. Tôi cảm thấy mình như được che chở trong tình thương bao la, nồng đượm ấy. Lòng tôi bồi hồi, rưng rưng một niềm xúc động. Tôi thì thầm hỏi nhỏ:

   - Thưa Bác, sao Bác chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không?

   Bác không trả lời câu hỏi của tôi mà ân cần khuyên nhủ:

   - Chú cứ việc ngủ ngon, để lấy sức ngày mai đánh giặc!

   Vâng lời Bác, tôi nhắm mắt vào mà lòng vẫn thấp thỏm không yên. Những chiến sĩ trẻ chúng tôi sức dài vai rộng, còn Bác vừa yếu lại vừa cao tuổi. Người không ngủ thì làm sao có đủ sức khỏe để chỉ đạo chiến dịch quyết liệt này?

   Thời gian vẫn âm thầm trôi qua. Trời đang chuyển dần về sáng. Lần thứ ba thức dậy, tôi giật mình thấy Bác vẫn ngồi im như pho tượng, đôi mắt tríu nặng suy tư đăm đăm nhìn ngọn lửa hồng. Không thể đành lòng, tôi đành lên tiếng:

   - Thưa Bác! Xin Bác chợp mắt một chút cho khỏe ạ!

   Bác cất giọng trầm ấm bảo tôi:

   - Cháu đừng bận tâm! Bác không thể yên lòng mà ngủ. Trời thì mưa lạnh thế này, đoàn dân công ngủ ngoài rừng, tránh sao cho khỏi ướt?! Bác nóng ruột lắm, chỉ mong trời mau sáng!

   Nghe Bác nói, tôi càng hiểu tình thương của Người sâu nặng, bao la biết chừng nào! Bác lo cho chiến sĩ, dân công cũng là lo cho chiến dịch, cho cuộc kháng chiến gian khổ mà anh dũng của toàn dân. Tình thương ấy bao trùm lên đất nước và dân tộc.

   Sung sướng và tự hào biết bao, tôi được làm người chiến sĩ chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, của Bác! Bác đã khơi dậy trong tôi tình đồng đội, tình giai cấp đpẹ đẽ và cao quý. Không đành lòng ngủ yên trong chăn ấm, bên bếp lửa hồng, khi những đồng đội của mình còn phải chịu bao gian khổ, tôi thức luôn cùng Bác. Dường như hiểu được lòng tôi, những ngọn lửa hồng cũng nhảy múa reo vui và càng thêm rực sáng.

Bài văn mẫu 3 - Bài thơ "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá"

   Tháng tám giữa thu, trời bắt đầu chuyển lạnh. Suốt mấy ngày, mây xám giăng giăng trên dãy núi trập trùng. Khung cảnh miền sơn cước mới ảm đạm, hiu quạnh làm sao! Căn nhà tranh ba gian vừa được dựng bên khe Càn Hoa của nhà thơ Đỗ Phủ trông giống như một chiếc tổ chim bám cheo leo trên vách đá. Từ ngày thôi làm quan, Đỗ Phủ đưa gia đình về đây ở ẩn, lánh xa chốn triều đình nhiễu nhương, thối nát, lành ít, dữ nhiều.

   Suốt mấy năm trời, thi sĩ mắc bệnh mất ngủ không chỉ vì bệnh tật của bản thân và sự nghèo đói của gia đình mà còn vì lo lắng cho vận dân, vận nước. Lũ quan lại sâu mọt thi nhau đục khoét dân lành. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Kỉ cương phép nước đã tới hồi suy tàn. Thêm vào đó là cảnh vỡ đê xảy ra liên miên dẫn đến nạn đói khủng khiếp kéo dài, loạn lạc nổi lên khắp chốn. Những người có nhiệt tình, có tam huyết như Đỗ Phủ trước tình trạng đau lòng ấy, sao tránh khỏi buồn đâu, khắc khoải đến bạc đầu?!

   Sống trong cảnh đói không cơm, đau không thuốc, sức khỏe của nhà thơ yếu đi nhiều lắm. Nhìn vợ con nheo nhóc, ông tủi cho phận làm chồng, làm cha chưa trọn, nhưng tình thế xã hội rối ren đến mức này, biết phải làm sao?! Lực bất tòng tâm, ông đành ôm mối sầu hận trong lòng. Cũng may mà được bạn bè thương tình giúp đỡ, dựng cho mái tranh sơ sài để che sương che nắng qua ngày. Những tưởng được sống bình yên những năm cuối đời, vậy mà trời già tai ác vẫn muốn thử thách sức chịu đựng của con người khốn khổ đó.

   Vào một buổi chiều, bỗng dưng mây xám ùn ùn kéo tới, giông gió nổi lên cuồn cuộn, réo ù ù như xay lúa. Cây cối vật vã, ngả nghiêng, gãy cành, rụng lá. Cơn lốc xoáy dữ dội bứt tung mái tranh, ném đi muôn ngả. Nhiều tấm tranh bay tít sang tận bên kia sông, nằm bừa bãi khắp nơi. Có tấm treo tận ngọn cây cao trong rừng xa, có tấm rơi xuống mương sâu gần nhà.

   Bất chấp sự ngăn cản, lũ trẻ trong thôn hùa nhau cướp giật những tấm tranh ngay trước mắt nhà thơ. Chúng cắp tranh chạy tuốt vào lũy tre đầu làng. Muốn đòi tranh lại nhưng hơi sức chẳng còn, không thể kêu gào, nhà thơ đành ấm ức chống gậy quay về, đứng run rẩy, ngậm ngùi trước căn nhà bị gió thu phá tan hoang.

   Lát sau gió lặng, màn đêm ập xuống tối đen như mực. Buổi chiều, gió xoáy làm tốc mái tranh. Đến đêm, trời lại đổ mưa. Mưa rơi xối xả xuống ngôi nhà tốc mái như trút nước. Nhà dột khắp nơi, chẳng biết tránh vào đâu. Cả gia đình Đỗ Phủ nằm co quắp trong đống chăn đệm cũ rách, lạnh ngắt như đồng. Lũ trẻ đói bụng ngủ không yên giấc, lại đạp nát thêm. Tình cảnh thật thương tâm!

   Nhà thơ Đỗ Phủ thao thức, trằn trọc suốt năm canh, chỉ mong trời mau sáng. Từ đó loạn lạc tới giờ, ông ít ngủ. Đêm nay, bao nhiêu nỗi khổ dồn dập ập đến: maí nhà bị gió thu phá nát, trống toang; mưa to khiến nền nhà sũng nước; chiếu chăn cũ rách không đủ ấm, trong đầu bao nỗi lo lắng, giày vò... Đúng là cảnh cơ hàn, khốn khó. Vậy mà Đỗ Phủ lo cho mình một phần, lo cho thiên hạ muôn phần. Ông hiểu rằng mình đã khổ, người khác cong khổ hơn. Đỗ Phủ cảm thấy đời mình thật bất hạnh nhưng cũng thấy hiểu nỗi khổ của người khác. Họ cũng giống như mình, đều đói rách tả tơi.

   Trong cảnh bị mưa gió dập một cách tàn nhẫn, trái tim nhà thơ đau thắt không phải vì chuyện căn nhà bị gió thu tốc mái mà còn vì cảnh không nhà của bao kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ. Từ hiện thực đau khổ tột cùng ấy đã vút lên ước mơ cao cả, chan chứa lòng vị tha. Ông thầm ước có được ngôi nhà rộng muôn ngàn gian, vững như bàn thạch trước gió mưa để có thể che chở cho tất cả những kẻ sĩ cùng những người nghèo khổ như ông: Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt, riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được! Lòng vị tha của Đỗ Phủ đã đạt đến mức xả thân, sẵn sàng hi sinh tất cả vì hạnh phúc chung. Ông chấp nhận nỗi khổ về mình, miễn sao mọi người thoát khỏi cảnh lầm than và được hạnh phúc. Ước mơ ấy tuy mang màu sắc ảo tưởng song rất cảm động vì nó bắt nguồn từ trái tim nhân ái của nhà thơ.

   Tưởng tượng ra căn nhà rộng muôn ngàn gian, trong lòng Đỗ Phủ thoáng một chút vui. Ngoài kia, trời vẫn mưa không dứt và gió thu lạnh lẽo vẫn rít ù ù dọc khe núi vắng.

Bài viết liên quan

329
  Tải tài liệu