Quảng cáo
3 câu trả lời 1340
Bài thơ "Nhớ mẹ và làng Quân Họ" của Trương Nam Hương là một tác phẩm thơ hay và cảm động, thể hiện tình yêu quê hương, tình cảm gia đình sâu sắc, đặc biệt là tình yêu thương mẹ. Với ba khổ thơ đầu, bài thơ đã khắc họa được những hình ảnh giản dị nhưng đầy xúc động về mẹ và quê hương, làng Quân Họ – nơi gắn bó với tác giả từ thuở nhỏ.
"Nhớ mẹ và làng Quân Họ Mẹ là núi non, mẹ là dòng sông Bước chân qua bao nhiêu dòng sông Mẹ vẫn là quê hương"
Khổ thơ mở đầu như một lời tâm sự, trầm lắng và đầy tình cảm của tác giả khi nhắc đến mẹ và quê hương. Mẹ được tác giả so sánh với núi non, dòng sông – những hình ảnh gắn bó và vĩnh cửu, tượng trưng cho sự trường tồn và kiên cường. Từ những bước chân đi qua bao nhiêu dòng sông, tác giả vẫn cảm nhận được mẹ là quê hương. Cảm giác về mẹ không phải chỉ là hình ảnh người mẹ trong gia đình mà còn là một phần máu thịt của quê hương, là nguồn cội không thể tách rời. Mẹ luôn hiện diện trong từng bước đi của tác giả, dù ở đâu, ở đâu xa, mẹ vẫn luôn là điều thiêng liêng và quý giá nhất.
"Nhớ mẹ làng Quân Họ Lúa xanh ngả bóng trên dòng sông quê Con sông gợn sóng đi về Nghe tiếng mẹ gọi, nghe lời ru"
Ở khổ thơ này, hình ảnh quê hương được tác giả khắc họa rất rõ nét qua hình ảnh làng Quân Họ, với những cánh đồng lúa xanh ngát, những con sông uốn lượn quanh làng. Cảnh vật quê hương hiện lên thật thanh bình và đẹp đẽ. Mẹ ở đây không chỉ là một người thân mà còn là tiếng gọi của quê hương, là những lời ru êm đềm, ngọt ngào. Tiếng gọi của mẹ như một lời nhắc nhở, như một sự an ủi, vỗ về, và cũng như một sợi dây gắn kết giữa người con và quê hương.
"Con đi, mẹ vẫn ngóng trông Đợi con về để ru lòng về quê Dẫu xa xôi, dẫu cách biệt Mẹ vẫn luôn trong trái tim con"
Khổ thơ này thể hiện một nỗi nhớ thương sâu sắc, một tình yêu vô bờ bến của người con dành cho mẹ. Dù có đi xa, dù có trải qua bao nhiêu khó khăn, cách biệt, người mẹ vẫn luôn ngóng trông, chờ đợi, và luôn có mặt trong trái tim con. Những lời ru của mẹ không chỉ là âm thanh dịu dàng mà còn là sự tiếp sức cho người con trong hành trình cuộc sống. Mẹ vẫn là chốn quay về, là điểm tựa vững vàng trong lòng con, là động lực giúp con vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời.
Qua ba khổ thơ đầu của bài thơ "Nhớ mẹ và làng Quân Họ", Trương Nam Hương đã vẽ nên một bức tranh tình cảm gia đình thật đẹp, với hình ảnh người mẹ yêu thương và quê hương gắn bó. Từ những câu thơ mộc mạc, chân thành, tác giả đã khắc họa được tình cảm sâu sắc mà người con dành cho mẹ, cho quê hương. Mẹ không chỉ là người nuôi dưỡng, chăm sóc, mà còn là nguồn động viên tinh thần mạnh mẽ giúp con trưởng thành và vững bước trong cuộc đời. Quê hương, trong lòng tác giả, không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn mà còn là nơi tìm về, là điểm tựa tâm hồn vững chắc cho những ai đã một lần rời xa.
"Nhớ Mẹ và Làng Quan Họ" của Trương Nam Hương là một khúc ca da diết về tình mẫu tử và tình yêu quê hương, nơi những ký ức tuổi thơ ùa về trong tâm trí người con xa xứ. Ba khổ thơ đầu tiên của bài thơ mở ra một không gian nghệ thuật đặc biệt, khắc họa nỗi nhớ nhung da diết, sự day dứt khôn nguôi và những hình ảnh thân thương về mẹ và làng quê Kinh Bắc.
Ngay từ khổ thơ đầu, tác giả đã tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ bằng hình ảnh "Nghe quan họ đêm rằm anh bật khóc". Tiếng khóc ấy không chỉ là sự xúc động nhất thời mà còn là sự bùng nổ của những cảm xúc dồn nén, khơi gợi một nỗi niềm sâu xa trong tâm hồn người con. Câu thơ "Lời chênh vênh uốn lượn mái chùa" gợi lên vẻ đẹp cổ kính, thanh bình của làng quê, nơi có những mái chùa cong vút, soi bóng xuống dòng sông. Hình ảnh "Vịn câu hát anh lần về cội gốc" thể hiện khát vọng tìm về nguồn cội, về những giá trị văn hóa truyền thống đã nuôi dưỡng tâm hồn người con. Câu thơ cuối khổ "Chợt thấy mình có lỗi với làng xưa" hé lộ một nỗi day dứt, ân hận trong lòng tác giả, có lẽ vì đã lâu rồi người con chưa trở về thăm quê, chưa trọn vẹn đạo hiếu với mẹ.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục khai thác sâu hơn nỗi nhớ thương da diết của tác giả. Câu thơ "Bao mưa nắng đời anh chưa hiểu hết" cho thấy sự trưởng thành, từng trải của người con, nhưng đồng thời cũng thể hiện sự nuối tiếc vì đã không sớm nhận ra những giá trị thiêng liêng của quê hương. Cụm từ "Giờ xót xa thương mẹ nhớ làng" diễn tả một cách chân thực nỗi lòng của người con khi đã trải qua những thăng trầm của cuộc đời, mới thấm thía được tình mẹ bao la và vẻ đẹp bình dị của làng quê. Câu thơ "Mẹ cho của hồi môn là câu hát" là một hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, khẳng định giá trị tinh thần vô giá mà người mẹ đã trao cho con, đó là những làn điệu quan họ ngọt ngào, là tình yêu quê hương tha thiết. Hành trang mà mẹ trao cho con không phải là vật chất, mà là những giá trị văn hóa, là bản sắc dân tộc, là nguồn sức mạnh để con vững bước trên đường đời.
Đến khổ thơ thứ ba, hình ảnh người mẹ hiện lên một cách rõ nét hơn qua những kỷ niệm tuổi thơ. Câu thơ "Mẹ thường bảo làng ta giàu cổ tích" gợi lên một không gian huyền ảo, nơi có những câu chuyện cổ tích về bà tiên, ông bụt, về những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế cuộc sống của mẹ lại không hề màu hồng như trong cổ tích, "Nhưng mẹ vẫn một đời áo rách". Sự đối lập giữa "giàu cổ tích" và "một đời áo rách" làm nổi bật sự tần tảo, hy sinh của người mẹ, dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả nhưng mẹ vẫn luôn giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống. Câu thơ "Cố giữ lành câu quan họ thôi" thể hiện ý thức trách nhiệm của người mẹ trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của quê hương. Câu thơ cuối khổ "Người để lại chiếc khăn hoa lý" là một hình ảnh giàu sức gợi, chiếc khăn hoa lý không chỉ là một vật kỷ niệm mà còn là biểu tượng cho tình yêu thương, sự dịu dàng, đảm đang của người mẹ.
Ba khổ thơ đầu của bài thơ "Nhớ Mẹ và Làng Quan Họ" đã vẽ nên một bức tranh quê hương đầy xúc động, nơi có bóng dáng người mẹ tảo tần, có những làn điệu quan họ ngọt ngào, có những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm. Bằng ngôn ngữ thơ giản dị, chân thành, Trương Nam Hương đã chạm đến trái tim của người đọc, khơi gợi trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương, lòng biết ơn đối với mẹ và ý thức trách nhiệm trong việc gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Có thể nhận thấy được rằng việc chúng ta bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một trong những nhiệm quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia, dân tộc, bởi "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai" (UNESCO). Hay như chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói “Trẻ em như búp trên cành” cho nên việc chúng ta yêu thương các em trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không phải của riêng ai.
Nhận thấy được rằng chính tương lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại phụ thuộc vào sự chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ. Đồng thời nó cũng lại thật phụ thuộc vào sức khoẻ, trí tuệ, năng lực… của thế hệ trẻ. Chúng ta như không thể nào có thể quên được ngay trong "Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường", Bác Hồ viết: "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu". Thông qua lời căn dặn này ta đồng thời cũng có thể nhận thấy được trẻ em là người sẽ quyết định tương lai, vị thế của mỗi dân tộc trên trường quốc tế.
Quả không sai khi người ta nói chỉ cần xem công tác kiểm tra các vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em của một đất nước thôi thì có thể đánh giá được trình độ văn minh và phần nào bản chất của một xã hội. Ta như nhận thấy được ở đất nước Nhật. Nước Nhật là một quốc gia không có nhiều tài nguyên thiên nhiên trong khi đó lại phải đối mặt với rất nhiều thiên tai như động đất và núi lửa nhưng đất nước vẫn vươn lên trở thành một trong những siêu cường lớn nhất hiện nay. Đó chính là việc nước Nhật luôn luôn coi trọng và phát triển con người. Người Nhật luôn dạy con cái – những thế hệ mầm non tương lai của đất nước họ rất nhiều bài học. Họ thực sự quan tâm đến thế hệ con trẻ và luôn chăm lo đến đời sống của các em. Có như vậy thì đất nước họ mới có thể có được vị thế vững chắc như ngày hôm nay.
Ta nhận thấy được chính nhờ sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam, hay đó cũng còn là chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội đối với trẻ em hiện nay được quan tâm trên nhiều khía cạnh. Trong những năm 1989, Công ước Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em dường như cũng lại ra đời đã ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em như các nhóm quyền sống còn, và có cả các nhóm quyền bảo vệ, nhóm quyền phát triển và nhóm quyền tham gia. Có thể khẳng định được rằng cũng chính công ước này thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em. Đồng thời nó cũng chính là những điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm. Sự kiện tiếp theo có thể nhận thấy được vào năm 1990 Tuyên bố thế giới… đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể và toàn diện nhằm bảo vệ và chăm sóc trẻ em cùng với một bản kế hoạch hành động khá chi tiết trên từng mặt cơ bản. Dễ dàng nhận thấy được cũng chính tuyên bố này một lần nữa thể hiện sự quan tâm thích đáng của cộng đồng quốc tế đối với các quyền lợi và tương lai của trẻ em.
Hiện nay ta như nhận thấy được cũng chính vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Việt Nam vinh dự và cũng thật tự hào là nước thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em. Và ta như thấy được cũng chỉ sau Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm 1990, lúc này đây thì Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định Chương trình hành động vì sự sống còn. Đồng thời như cũng thấy được cũng chính quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em Việt Nam từ năm 1991 đến 2000, đặt thành một bộ phận của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trên cơ sở những luật pháp như được ban bố kia thì các ngành, các cấp phải có những hoạt động thật cụ thể để nhằm đảm bảo các quyền lợi của trẻ em như các chính sách hỗ trợ kinh tế đối với trẻ em nghèo để các em có thể đến trường, quan tâm xây dựng cơ sở vật chất, trường học, thiết bị dạy học… để nâng cao chất lượng giáo dục, kêu gọi các tổ chức xã hội và nhân dân đóng góp xây đựng trường lớp, giúp đỡ trẻ em khuyết tật, đóng góp quỹ vì người nghèo, vì trẻ em bị nhiễm chất độc màu da cam, khuyến khích mở các lớp học tình thương, các trung tâm bảo trợ trẻ em mồ côi, tàn tật, lang thang không nơi nương tựa…
Trẻ em cũng cần được yêu thương và chăm sóc cho nên những hành động có hại hay mang đến những tổn thương cho các em cần được lên án và tẩy chay.
Hiện nay thì các tình trạng bạo hành trẻ em của nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới cũng đang có xu thế gia tăng và theo nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Bên cạnh những việc làm có ý nghĩa như hiện tượng cá nhân tổ chức thu nhận trẻ em cơ nhỡ, lang thang thì vẫn còn không ít những quyền của trẻ em hiện nay đang bị xâm hại và không được coi trọng. Tất cả những vấn nạn gây ra nhiều tổn thương về tinh thần cũng như thể xác của các em cũng cần được đưa ra để có những biện pháp xử lý cụ thể nhất, nhằm có thể răn đe cho người sau. Trẻ em cũng nên được giáo dục hiểu biết về luật pháp cũng như những quyền của chính mình. Các em luôn xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc của người thân và toàn xã hội.
Trẻ em chính là chủ nhân tương lai của đất nước, nên hãy biết yêu quý và bảo vệ các em để tránh những điều không tốt làm tổn hại đến nhân phẩm cũng như thể xác.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK204984
-
Hỏi từ APP VIETJACK154938
-
Hỏi từ APP VIETJACK33538