Quảng cáo
3 câu trả lời 365
Phân tích bài thơ "Vịnh khoa thi lương" của Trần Tế Xương
Bài thơ Vịnh khoa thi lương của Trần Tế Xương (tên thật là Trần Văn Cẩn), một trong những thi sĩ nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam, mang đậm tính chất trào phúng, phê phán xã hội phong kiến đương thời. Trần Tế Xương là người rất mẫn cảm với các vấn đề xã hội, đặc biệt là những bất công trong hệ thống thi cử, quan trường và những khía cạnh tiêu cực trong đời sống văn hóa, chính trị. Bài thơ "Vịnh khoa thi lương" phản ánh quan điểm của ông về cuộc thi cử và những khó khăn mà thí sinh phải đối mặt trong xã hội phong kiến.
1. Tổng quan về bài thơ
Bài thơ Vịnh khoa thi lương được sáng tác trong bối cảnh xã hội phong kiến Việt Nam, khi mà hệ thống thi cử được coi là con đường chính để đạt được địa vị xã hội. Tuy nhiên, quá trình này lại không hề công bằng, mà chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như quan hệ, tiền bạc, và sự may mắn. Trần Tế Xương đã dùng thơ để phản ánh sự bất công này, đồng thời cũng thể hiện sự châm biếm, giễu cợt đối với những người tham gia kỳ thi lương (thi quan) mà không có thực tài.
2. Phân tích chi tiết bài thơ
Trong bài thơ, Trần Tế Xương đã khắc họa rõ ràng những bất cập của kỳ thi cử phong kiến qua các hình ảnh và sự kiện cụ thể.
Khái quát những yếu tố phản ánh xã hội
Ngay từ đầu bài thơ, Trần Tế Xương đã thể hiện thái độ trào phúng, châm biếm qua cách miêu tả những người tham gia thi cử, đặc biệt là những thí sinh không có tài năng nhưng lại nắm trong tay các mối quan hệ, tiền bạc:
“Dưới ánh đèn vàng, học trò ngồi chấm thi”
“Bút mực hỏng, tài năng nào mà thi được?”
Đây là những câu thể hiện sự châm biếm về một số thí sinh dự thi mà không có tài năng, chỉ dựa vào các mối quan hệ hoặc tiền bạc để đạt được kết quả tốt. Câu thơ “Bút mực hỏng, tài năng nào mà thi được?” không chỉ phê phán sự yếu kém về học vấn mà còn ám chỉ những người thi cử không thực sự xứng đáng với vị trí của mình trong xã hội.
Sự bất công trong kỳ thi
Trần Tế Xương không chỉ phê phán sự yếu kém về học thức mà còn phê phán sự bất công trong hệ thống thi cử. Trong xã hội phong kiến, kỳ thi cử không phải lúc nào cũng công bằng. Những người có quyền, có tiền có thể "lo lót", mua chuộc, và thành công dù không thực sự xứng đáng. Họ thường được trọng dụng, trong khi những người có tài nhưng không có "quan hệ" lại dễ dàng bị bỏ qua.
Giọng điệu mỉa mai, châm biếm
Trần Tế Xương vốn nổi tiếng với giọng điệu mỉa mai, châm biếm, và trong bài thơ này, ông đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật như đối lập, phóng đại để làm nổi bật sự giả dối và bất công của kỳ thi cử. Những câu thơ mang tính chất mỉa mai, châm biếm rõ nét:
“Thương thay học trò, đã chôn cả sách vở,
Cũng chẳng được cái gì ngoài cái lỗ hỏng mà thôi.”
Ở đây, tác giả sử dụng hình ảnh "lỗ hỏng" để chỉ ra sự vô ích của việc học thi đối với những người không có "mối quan hệ". Cả quá trình học hành, lao động trí óc dường như trở thành vô nghĩa nếu thiếu sự hỗ trợ từ "bên ngoài", không có quan hệ hay tiền bạc.
3. Tầm nhìn của Trần Tế Xương
Bài thơ Vịnh khoa thi lương không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn thể hiện tầm nhìn của Trần Tế Xương đối với những bất công trong nền thi cử của xã hội phong kiến. Với giọng điệu hài hước, châm biếm, ông bày tỏ sự thất vọng đối với những kẻ thiếu tài nhưng lại được trọng dụng, và đồng thời thể hiện sự khinh bỉ đối với những kẻ chỉ dựa vào quyền thế, mối quan hệ mà không phải qua thực lực.
Thông qua đó, Trần Tế Xương không chỉ kêu gọi sự thay đổi trong hệ thống thi cử mà còn phản ánh những vấn đề sâu sắc trong xã hội phong kiến: tình trạng bất công, sự thối nát của quan trường và hệ thống giáo dục. Đây cũng là lời nhắc nhở về giá trị đích thực của tài năng, trí thức và sự công bằng trong xã hội.
4. Tinh thần tự trào và trào phúng trong thơ Trần Tế Xương
Bài thơ cũng thể hiện rõ tinh thần tự trào của Trần Tế Xương, ông không chỉ chỉ trích xã hội mà còn tự trào về chính bản thân mình. Trần Tế Xương là một người có tài năng nhưng lại không thể đạt được thành công trong các kỳ thi cử, có thể thấy ông cũng đang châm biếm chính bản thân mình với những câu thơ đượm buồn về hệ thống thi cử đương thời. Tuy nhiên, cái buồn ấy lại được thể hiện qua giọng điệu hài hước, trào phúng, khiến người đọc vừa cảm nhận được nỗi buồn của tác giả, vừa thấy được sự thấu hiểu sâu sắc của ông đối với số phận của những thí sinh.
5. Kết luận
Vịnh khoa thi lương là một bài thơ tiêu biểu của Trần Tế Xương, với giọng điệu châm biếm sắc sảo, tác giả đã phản ánh một cách sâu sắc sự bất công trong xã hội phong kiến qua hệ thống thi cử. Bài thơ không chỉ phê phán xã hội mà còn thể hiện sự bất mãn, sự thất vọng của tác giả về những người không thực tài nhưng lại thành công nhờ các mối quan hệ, tiền bạc. Tuy nhiên, bài thơ cũng là một tác phẩm thể hiện tinh thần trào phúng, tự trào của Trần Tế Xương, giúp người đọc nhìn thấy được một bức tranh toàn cảnh về một xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công và thối nát.
Tú Xương sinh năm 1870, đến năm 15 tuổi đã bắt đầu đi thi. Khoa Ất Dậu 1885, không đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều hỏng. Khoa Giáp Ngọ 1894, chỉ đỗ tú tài, năm đó 24 tuổi và từ đó đã chính thức thành tên là Tú Xương. "Thi không ăn ớt thế mà cay". Tú Xương còn vác lều chõng thi tiếp 4 khoa nữa: Khoa Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân nói: "Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương thi chết thôi, thi cho đến chết mới thôi".
"Một việc văn chương thôi cũng nhàm,
Trăm năm thân thế có ra gì ?".
(Buồn thi hỏng)
Khoa thi Đinh Dậu đôi với Tú Xương có một ý nghĩa đặc biệt: Nhiều hăm hở và hi vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ, 1894) ông đã đỗ tú tài nên khoa thi này ông hi vọng sẽ đỗ cử nhân bước lên đài danh vọng: "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau". Nhan đề bài thơ còn có một cái tên khác: "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu". Bài thơ miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó nói lên nỗi nhục mất nước và niềm chua xót của kẻ sĩ đương thời. Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà".
Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bây giờ nước ta đã bị thực dân Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ "ba năm mở một khoa" nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước là chính phủ bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà". Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Tây thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số người dự thi còn đông hơn nhiều!
Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh trường thi như vậy. Dáng hình sĩ tử thì “vai đeo lọ" trông thật nhếch nhác, "lôi thôi". Sĩ tử là người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp bút nghiên. Trong đám sĩ tử "lôi thôi" sẽ xuất hiện những ông cử, ông tiến sĩ, ông tú nay mai. Câu thơ "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ" là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ hai chữ "lôi thôi" lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn "vai đeo lọ". Lọ mực hay lọ đựng nước uống trong ngày thi? Đạo học (chữ Hán) đã cuối mùa, "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi" nên trường thi mới có hình ảnh mỉa mai “ Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ " ấy .
Nét vẽ thứ hai cũng thật tài tình:
"Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".
Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm dọa. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng thanh "ậm oẹ" lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường "miệng thét loa". Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới "ậm oẹ" và "thét loa" như thế. Tú Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm họa độc đáo này gợi lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta:
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".
Hai câu luận tô đậm bức tranh "Lễ xướnq danh khoa Đinh Dậu" bằng hai bức biếm họa về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó toàn quyền Paul Doumer và vợ chồng tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử lẫn khoa, các ông tú mền, tu kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lay mụ đầm “váy lê quét đất", “ ghế trên, ngoi đít vịt". Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
"Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra".
Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh "Lọng cắm rợp trời" gợi tả cảnh đón tiếp dành cho "quan sứ", lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ "mụ đầm ra" mụ đầm đến với "váy lẽ quét đất" mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:
"Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng".
Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: "Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì quả là nhục". Vịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu nếu thiếu đi hai hình ảnh ông Tây mụ đầm, bức tranh biếm họa coi như chẳng còn gì. Nghệ thuật đối của Tú Xương đã làm tăng sức hấp dẫn cho phong cách hiện thực của Tú Xương. Và nhờ có "lọng" đối với "váy", "quan" đối với "mụ" mà giọng cười, lối cười, hương cười, sắc cười (chữ của Nguyễn Tuân) của câu thơ Tú Xương kế thừa cái cười dân tộc trong ca dao, trong tuồng, chèo cổ.
Có hiểu được rằng lọng là một thứ nghi trượng (cờ, biển, tán, tàn, võng, lọng,...) cao sang được dùng trong nghi lễ đón rước cúng tế lại được đem đối với váy (đồ dơ), mới thấy nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương. Nỗi đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận này. Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh Dậu:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”
Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay đắng. Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lòng tự tôn dân tộc,... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng "nào ai đó" phiếm chỉ càng làm cho tiếng than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ "ngoảnh cổ" gợi lả một thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải biết "ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". "Cảnh nước nhà" là cái cảnh nhục nhã:
"Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu...
(...) Kẻ chức bồi người tước cu li
Thông ngôn, kí lục chi chi
Mãn đời, lính tập, trọn vị quan sang”
(Á tế Á ca)
Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người tham dự, là người chứng kiến,... Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ...
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" vừa tả cảnh "nhập trường", vừa tả cảnh “lễ xướng danh", qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ. Một hiện thực đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng. Và trữ tình thấm thía bao cay đắng tủi nhục. Chất thơ, hồn thơ, phong cách thơ Tú Xương là như thế!
Bình về bài thơ này, Nguyễn Tuân viết: "... thơ nói về trường thi của Tú Xương giống như những lời thanh nghị của một lớp sĩ phu thời đó. Không đánh được ai bằng khí giới, thì ít nhất cũng phải lấy bút ra mà vẩy cái lực sĩ khí vào những nghè, những cử bịt mũi xu thời! vẩy vào, và than một đôi lời”.
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Trần Tế Xương là một tác phẩm nổi tiếng, mang tính chất châm biếm, phản ánh thực trạng xã hội và tâm trạng của nhà thơ trước kỳ thi Hương. Bài thơ được viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời kỳ cuối thế kỷ 19, khi triều đình nhà Nguyễn đang suy yếu và xã hội bị ảnh hưởng bởi sự xâm lược của thực dân Pháp.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh:
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà."
Hình ảnh này mô tả sự kiện thi cử của triều đình, nhưng đằng sau đó là nỗi chán nản của nhà thơ về chất lượng và sự công bằng trong thi cử.
Trong bài thơ, Trần Tế Xương sử dụng ngôn ngữ bình dị nhưng đầy sắc bén để miêu tả sự giả dối, tham nhũng và bất công trong xã hội:
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa."
Hình ảnh sĩ tử lôi thôi và quan trường ậm ọe đã tạo nên một bức tranh biếm họa sống động về kỳ thi Hương.
Nhà thơ cũng không ngần ngại bày tỏ sự bất mãn của mình:
"Chẳng biết ba năm hay một khắc,
Mặt mũi ông nghè cóc vẫn nhăn."
Câu thơ này thể hiện sự chán nản và thất vọng của nhà thơ khi chứng kiến cảnh tượng thi cử không còn mang ý nghĩa thực sự.
Tóm lại, "Vịnh khoa thi Hương" là một tác phẩm châm biếm sâu sắc, thể hiện cái nhìn thực tế và đầy trăn trở của Trần Tế Xương về xã hội và con người thời kỳ đó. Bài thơ không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn là một tư liệu quý giá về lịch sử và văn hóa.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
103321
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
78996 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
72110 -
Hỏi từ APP VIETJACK60182
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
46135 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
36904
