Quảng cáo
2 câu trả lời 20
Đời sống văn hoá ở Đại Việt trong các thế kỉ XVI – XVIII có nhiều nét phong phú, đa dạng, vừa kế thừa truyền thống dân tộc, vừa có những biến đổi phù hợp với hoàn cảnh lịch sử.
Trước hết, về tư tưởng – tôn giáo, Nho giáo vẫn giữ vị trí quan trọng trong xã hội, đặc biệt trong bộ máy nhà nước và giáo dục. Tuy nhiên, so với các thế kỉ trước, Nho giáo không còn giữ vai trò độc tôn. Phật giáo và Đạo giáo được phục hồi và phát triển trở lại trong nhân dân. Bên cạnh đó, Thiên Chúa giáo bắt đầu du nhập vào Đại Việt từ thế kỉ XVI, góp phần làm đời sống tinh thần thêm đa dạng.
Về giáo dục và khoa cử, tuy đất nước bị chia cắt (Đàng Ngoài – Đàng Trong), nhưng các triều đại và chính quyền vẫn duy trì việc học tập và thi cử theo Nho học. Nhiều trường học được mở, các kì thi được tổ chức đều đặn để tuyển chọn nhân tài. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục có phần giảm sút so với thời Lê sơ.
Về văn học, văn học chữ Hán và chữ Nôm tiếp tục phát triển. Nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội, đời sống nhân dân và bộc lộ tinh thần nhân đạo sâu sắc. Văn học dân gian như ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện cổ tích phát triển mạnh, phản ánh sinh động cuộc sống và tâm tư của người lao động.
Về nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ và sân khấu dân gian phát triển phong phú. Các loại hình nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, múa rối nước được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, mang đậm bản sắc dân tộc.
Đời sống văn hoá ở Đại Việt trong các thế kỉ XVI – XVIII tuy chịu nhiều biến động do chiến tranh và chia cắt đất nước, nhưng vẫn phát triển đa dạng, giàu bản sắc, thể hiện sức sống bền bỉ của văn hoá dân tộc.
nguy nổ và giao thoa văn hóa hết sức phong phú.
Dưới đây là những nét tinh tế về đời sống văn hóa thời kỳ này:
1. Tôn giáo và tín ngưỡng: Sự dậy sóng của Đạo giáo và Phật giáo
Nho giáo: vẫn giữ vị trí thống trị trên lý thuyết và trong thi cử, nhưng quyền đã suy giảm đáng kể so với thời Lê Sơ.
Phật giáo và Đạo giáo: Phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Thêm ngôi chùa được xây dựng hoặc tu bổ sung (chùa Keo, chùa Bút Tháp).
Thiên Chúa giáo: Được các giáo sĩ phương Tây truyền vào từ thế kỷ XVI. Dù bị triều đình nhiều lần kỳ vọng, tôn giáo này vẫn tỏa lan, gắn liền với ra đời của chữ Quốc ngữ .
Tín ngưỡng dân gian: Các lễ hội, tiếp tục thờ cúng tổ tiên, thờ các vị anh hùng dân tộc được duy trì và phát triển rộng khắp ở làng quê.
2. Sự ra đời của chữ Quốc ngữ
Hoàn cảnh: Các giáo sĩ phương Tây (tiêu biểu là Alexandre de Rhodes) dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt nhằm phục vụ công việc truyền đạo.
Ý nghĩa: Đây là một thành vật văn hóa lớn, dù ban đầu chỉ lưu hành trong phạm vi thu hẹp nhưng về sau đã trở thành thành chữ viết chính thức của dân tộc giúp tính tiện lợi, dễ học.
3. Văn học: Sự lên ngôi của chữ Nôm
Đây là thời kỳ rực rỡ của văn học chữ Nôm với những giá trị nhân văn sâu sắc:
Văn học truyền thơ: Xuất hiện nhiều tác phẩm dài bằng chữ Nôm như Thiên Nam ngữ lục .
Văn học phê phán: Các tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình) với những câu thơ châm biếm thói đời và dự báo thời cuộc.
Văn học dân gian: Phát triển thịnh vượng với các thể loại truyện tiếu lâm, truyện trạng thái (Trạng Quỳnh, Trạng Lượn), ca dao,tiếp tục ngôn ngữ... nội dung thường xuyên kích thước lại và phản ánh nỗi đau của dân nghèo.
4. Nghệ thuật dân gian đặc sắc
Đời sống văn hóa thần thánh của người dân còn được thể hiện qua các loại hình nghệ thuật:
Nghệ thuật điêu khắc: Đạt đến trình độ tinh thần, thể hiện qua các bức tượng Phật (Tượng Phật Bà Quan âm tàn sát tay ở chùa Bút Tháp) và các bức chạm chạm gỗ trên đình làng mô tả cảnh sinh hoạt dân dã dãi (đi sâu, đấu vật, bơi lội).
Nghệ thuật sân khấu: Chèo, Tuồng, Quan họ, hát đập... phổ biến ở cả ngoài trời và cát trong, phục vụ nhu cầu giải trí của quần chúng nhân dân sau giờ lao động.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
103321
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
78996 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
72110 -
Hỏi từ APP VIETJACK60182
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
46135 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
36904
