viết đoạn văn 200 chữ cảm nhận nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ khi mùa thu sang của trần đăng khoa và đoạn trích chiều thu của nguyễn bính từ thăm thẩm trời xanh ..... đàn kiến trường chinh từ thuở nào
Quảng cáo
4 câu trả lời 361
Hai đoạn thơ “Khi mùa thu sang” của Trần Đăng Khoa và “Chiều thu” của Nguyễn Bính đều gợi lên vẻ đẹp dịu dàng, sâu lắng của mùa thu – mùa của thiên nhiên đổi thay và lòng người rung cảm. Nếu Trần Đăng Khoa miêu tả mùa thu bằng con mắt hồn nhiên của một đứa trẻ, với những hình ảnh gần gũi như “sân phơi đầy nắng”, “đàn sáo bay”, thì Nguyễn Bính lại nhìn thu bằng tâm hồn thi sĩ trưởng thành, chan chứa hoài niệm, gợi buồn man mác qua hình ảnh “thăm thẳm trời xanh”, “đàn kiến trường chinh từ thuở nào”. Mỗi nhà thơ có một cách cảm nhận riêng, nhưng đều toát lên tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương và tâm hồn tinh tế trước những biến chuyển của đất trời. Về nghệ thuật, cả hai đều sử dụng ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gợi cảm và nhạc điệu mềm mại, thể hiện rõ phong cách riêng: Trần Đăng Khoa trong sáng, hồn nhiên; Nguyễn Bính trữ tình, cổ điển. Hai đoạn thơ, tuy khác thời đại và cảm xúc, nhưng cùng gặp nhau ở điểm chung – đó là tình yêu tha thiết với mùa thu, với cuộc sống và con người Việt Nam.
Cảm nhận về đoạn thơ trong "Khi mùa thu sang" (Trần Đăng Khoa) và đoạn trích "Chiều thu" (Nguyễn Bính)
Cả hai đoạn thơ, dù thuộc về hai giọng thơ khác biệt, đều tinh tế vẽ nên bức tranh mùa thu mang sắc thái riêng biệt. Đoạn thơ trong bài "Khi mùa thu sang" của Trần Đăng Khoa khai thác vẻ đẹp ấm áp, trong trẻo của khoảnh khắc giao mùa ở làng quê. Bằng nghệ thuật nhân hóa ("mặt trời kéo lùi rèm thu"), tác giả đã thổi hồn vào thiên nhiên, tạo nên một cảm giác tươi mới, đầy sức sống. Bầu trời thu không buồn bã mà mang sự thanh bình, nhẹ nhàng, gợi mở một cái nhìn đầy lạc quan, gắn bó với quê hương.
Trong khi đó, đoạn trích "Thăm thẳm trời xanh... đàn kiến trường chinh từ thuở nào" trong bài "Chiều thu" của Nguyễn Bính lại nhuốm màu cổ điển và nỗi buồn man mác. Hình ảnh "thăm thẳm trời xanh" mở ra một không gian cao vời, tĩnh lặng, tạo cảm giác cô đơn, rợn ngợp trước sự vô cùng của vũ trụ. Đặc biệt, hình ảnh "đàn kiến trường chinh từ thuở nào" là một ẩn dụ nghệ thuật độc đáo, vừa gợi lên sự nhỏ bé, cô đơn của cá nhân trước dòng chảy thời gian, vừa thể hiện sự hoài niệm, day dứt về những điều đã qua, những cuộc hành trình không hồi kết.
Về nghệ thuật, Trần Đăng Khoa sử dụng ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh, thể hiện cái nhìn hồn nhiên của tuổi thơ. Nguyễn Bính lại chọn những từ ngữ mang tính ước lệ, gợi cảm (thăm thẳm, trường chinh) kết hợp với nhịp thơ chậm rãi, trầm lắng, tạo nên chất thơ trữ tình, u hoài, đậm chất quê. Cả hai đoạn thơ đều thành công trong việc sử dụng hình ảnh thiên nhiên để bộc lộ cảm xúc và tình yêu sâu sắc của thi nhân dành cho mùa thu và quê hương.
ổn không?
- Bài thơ "Khi mùa thu sang" của Trần Đăng Khoa là một bức tranh thu tuyệt đẹp và trong trẻo về làng quê Việt Nam, được vẽ nên qua cái nhìn hồn nhiên, tinh tế của một "thần đồng thơ".
Về nội dung, hai khổ thơ đầu đã khắc họa khung cảnh chiều thu làng quê thanh bình và thơ mộng. Đó là một bức tranh đa sắc, đa cảm giác, nơi cảnh vật chuyển mình êm đềm: "mặt trời lặn xuống bờ ao", "ngọn khói xanh lên, lúng liếng" gợi không gian yên ả. Mùa thu còn được nhận ra qua mùi vị và âm thanh đặc trưng: tiếng "giã cốm" từ xóm ngoài báo hiệu mùa thu đang độ chín, hòa cùng làn "sương lam mỏng, rung rinh" như một bức tranh lụa mờ ảo. Đặc biệt, hình ảnh "em nhỏ cưỡi trâu về ngõ" không chỉ mang nét hồn nhiên, thân thuộc của đồng quê mà còn tạo điểm nhấn sinh động, khép lại một chiều thu thật trọn vẹn.
Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ sáu chữ linh hoạt, nhịp nhàng, ngôn ngữ giản dị, gần gũi nhưng lại vô cùng giàu sức gợi. Tác giả đã vận dụng thành công các biện pháp tu từ như nhân hóa ("ngọn khói... lúng liếng", "gió chẳng đuổi nhau") và so sánh ngầm, khiến cảnh vật trở nên sống động, có hồn. Chính sự kết hợp giữa khả năng quan sát tinh tế cùng với những liên tưởng độc đáo, bất ngờ đã giúp Trần Đăng Khoa thể hiện được cảm xúc yêu mến, tự hào sâu sắc dành cho vẻ đẹp quê hương mình.
2. Đoạn thơ mở đầu trong bài "Chiều thu" của Nguyễn Bính đã vẽ nên một bức tranh làng quê buổi xế chiều vô cùng trong trẻo, bình yên nhưng cũng rất đỗi thân thương.
Về nội dung, khổ thơ này là sự giao hòa tinh tế giữa không gian mênh mông và những âm thanh, hương vị rất riêng của đồng quê. Bầu trời "thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ" tạo nên một không gian bao la, tĩnh lặng tuyệt đối. Sự yên ả đó chỉ bị phá vỡ bởi những nét chấm phá tinh tế của hương và âm: mùi hương hoa thiên lý thoảng nhẹ trong gió, cùng với hình ảnh con cò bay lả trong câu hát ru, đưa em nhỏ vào giấc ngủ say nồng. Sự bình yên của thiên nhiên gắn liền với nhịp điệu đời sống con người. Khi chuyển sang khổ tiếp theo, thiên nhiên tuy có vận động ("gió đuổi nhau") nhưng vẫn rất đỗi quen thuộc và chứa đựng sự sống miệt mài: "trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác" (nhân hóa), và hình ảnh "đàn kiến trường chinh" gợi lên sự cần mẫn, bền bỉ của những sinh vật nhỏ bé.
Về nghệ thuật, Nguyễn Bính đã sử dụng thể thơ bảy chữ với âm điệu nhẹ nhàng, trầm lắng, rất hợp với không khí buổi chiều thu. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, đậm chất dân gian, giàu hình ảnh gợi cảm ("thăm thẳm", "thoảng", "lả", "say dài"). Đặc biệt, việc sử dụng các động từ giàu sức gợi và nghệ thuật nhân hóa đã thổi hồn vào vạn vật, khiến cảnh vật như có tâm trạng, qua đó thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Bính trong việc nắm bắt "thần thái" riêng của mùa thu thôn xóm.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
103087
-
Hỏi từ APP VIETJACK78772
-
Hỏi từ APP VIETJACK71504
-
Hỏi từ APP VIETJACK59953
-
Hỏi từ APP VIETJACK45838
-
36754
