Nhung Nguyen thi
Hỏi từ APP VIETJACK
Viết đoạn văn từ 6 đến 8 câu 11 chi tiết trào phúng trong bài văn tiến sĩ giấy
Quảng cáo
4 câu trả lời 371
4 tháng trước
Bài "Tiến sĩ giấy" của Nguyễn Khuyến chứa đựng nhiều chi tiết trào phúng sâu sắc nhằm phê phán lối học giả, khoa cử hư danh đương thời. Trong số đó, có thể kể đến 11 chi tiết trào phúng tiêu biểu như: “tướng mạo làm sao cũng chẳng hay”, “áo mũ xênh xang cũng rách rồi”, “lưng dài có phép nằm không ngã”, “vai rộng quen dùng việc đỡ thay”, “mõm thét chẳng ra hơi cũng tốt”, “mồm to ăn nói đã từng hay”, “nghìn thu bạc phếch màu men cũ”, “một cỗ vô tài chẳng ích gì”, “cũng cờ cũng biển cũng cân đai”, “cũng gọi ông nghè có tiếng tai”, và “lập nên cái tượng để đời sau”. Những chi tiết ấy không chỉ miêu tả dáng vẻ buồn cười, rỗng tuếch của ông tiến sĩ giấy mà còn châm biếm sâu cay những kẻ học hành không thực chất, chỉ chạy theo danh lợi hão huyền. Qua hình tượng “tiến sĩ giấy”, Nguyễn Khuyến đã mượn hình thức thơ vui để đả kích mạnh mẽ thực trạng sĩ phu thiếu năng lực, chạy theo hư danh trong xã hội phong kiến cuối thế kỷ XIX. Sự kết hợp giữa giọng điệu mỉa mai, ngôn từ bình dân và hình ảnh sinh động khiến bài thơ mang đậm chất trào phúng, gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
4 tháng trước
Các chi tiết trào phúng trong bài "Tiến sĩ giấy"
Bài văn "Tiến sĩ giấy" là một tác phẩm trào phúng sâu sắc, phơi bày thực trạng khoa cử suy đồi và thói học giả của tầng lớp trí thức đương thời. Tác giả đã khéo léo sử dụng nhiều chi tiết mang tính châm biếm, tạo nên tiếng cười chua chát về những "tiến sĩ" chỉ có danh mà không có thực tài. Đầu tiên, hình ảnh "tiến sĩ giấy" tự thân đã là một sự mỉa mai, bởi giấy mỏng manh, dễ rách nát, tượng trưng cho sự phù phiếm, vô dụng của bằng cấp. Tiếp theo, chi tiết "áo mũ cân đai" nhưng lại "rỗng tuếch" bên trong càng nhấn mạnh sự giả tạo, bề ngoài hào nhoáng che đậy nội dung trống rỗng. Thêm nữa, việc "cúng tế" tiến sĩ giấy thay vì tôn vinh tri thức thực sự cho thấy sự mê muội, coi trọng hình thức hơn bản chất. Sự "ngồi chễm chệ" của tiến sĩ giấy trên bàn thờ, trong khi thực tế chẳng làm được gì cho đời, là một nét trào phúng về thói quan liêu, vô trách nhiệm. Chi tiết "mắt lờ đờ" của tiến sĩ giấy gợi lên sự u mê, thiếu sáng suốt của những kẻ chỉ biết học vẹt, giáo điều. Hơn nữa, việc "đốt đi" tiến sĩ giấy sau khi cúng thể hiện sự vô giá trị, không bền vững của thứ học vị hư danh này. Sự "tan thành tro bụi" của tiến sĩ giấy còn là lời cảnh báo về hậu quả tất yếu của một nền giáo dục thiếu thực chất. Chi tiết "mùi khói nhang" bốc lên từ tiến sĩ giấy có thể ám chỉ những lời lẽ sáo rỗng, vô nghĩa của những kẻ học rộng nhưng không có ích. Sự "vắng bóng" của những tiến sĩ thực tài, có đóng góp cho xã hội, càng làm nổi bật sự tràn lan của tiến sĩ giấy. Cuối cùng, việc người dân vẫn tiếp tục "mua" và "cúng" tiến sĩ giấy cho thấy sự chấp nhận, thậm chí cổ súy cho thói hư danh trong xã hội. Tất cả những chi tiết này đã tạo nên một bức tranh trào phúng đầy chua xót về một thời đại mà giá trị thực bị thay thế bởi những thứ phù phiếm.
Bài văn "Tiến sĩ giấy" là một tác phẩm trào phúng sâu sắc, phơi bày thực trạng khoa cử suy đồi và thói học giả của tầng lớp trí thức đương thời. Tác giả đã khéo léo sử dụng nhiều chi tiết mang tính châm biếm, tạo nên tiếng cười chua chát về những "tiến sĩ" chỉ có danh mà không có thực tài. Đầu tiên, hình ảnh "tiến sĩ giấy" tự thân đã là một sự mỉa mai, bởi giấy mỏng manh, dễ rách nát, tượng trưng cho sự phù phiếm, vô dụng của bằng cấp. Tiếp theo, chi tiết "áo mũ cân đai" nhưng lại "rỗng tuếch" bên trong càng nhấn mạnh sự giả tạo, bề ngoài hào nhoáng che đậy nội dung trống rỗng. Thêm nữa, việc "cúng tế" tiến sĩ giấy thay vì tôn vinh tri thức thực sự cho thấy sự mê muội, coi trọng hình thức hơn bản chất. Sự "ngồi chễm chệ" của tiến sĩ giấy trên bàn thờ, trong khi thực tế chẳng làm được gì cho đời, là một nét trào phúng về thói quan liêu, vô trách nhiệm. Chi tiết "mắt lờ đờ" của tiến sĩ giấy gợi lên sự u mê, thiếu sáng suốt của những kẻ chỉ biết học vẹt, giáo điều. Hơn nữa, việc "đốt đi" tiến sĩ giấy sau khi cúng thể hiện sự vô giá trị, không bền vững của thứ học vị hư danh này. Sự "tan thành tro bụi" của tiến sĩ giấy còn là lời cảnh báo về hậu quả tất yếu của một nền giáo dục thiếu thực chất. Chi tiết "mùi khói nhang" bốc lên từ tiến sĩ giấy có thể ám chỉ những lời lẽ sáo rỗng, vô nghĩa của những kẻ học rộng nhưng không có ích. Sự "vắng bóng" của những tiến sĩ thực tài, có đóng góp cho xã hội, càng làm nổi bật sự tràn lan của tiến sĩ giấy. Cuối cùng, việc người dân vẫn tiếp tục "mua" và "cúng" tiến sĩ giấy cho thấy sự chấp nhận, thậm chí cổ súy cho thói hư danh trong xã hội. Tất cả những chi tiết này đã tạo nên một bức tranh trào phúng đầy chua xót về một thời đại mà giá trị thực bị thay thế bởi những thứ phù phiếm.
4 tháng trước
Trong bài “Tiến sĩ giấy”, Nguyễn Khuyến đã sử dụng nhiều chi tiết trào phúng để châm biếm hạng người học giả, bằng dỏm. Trước hết là hình ảnh “bụng ông cũng lép kêu to nhỏ” cho thấy ông tiến sĩ này chẳng có tri thức thực chất. Ông lại "vá víu áo xiêm che tấm thân", chứng tỏ chỉ lo hình thức, không có thực tài. Thêm vào đó, “tính nết dở dang như giấy má” và “công danh nhấp nhổm tựa phường tuồng” càng lột tả tính cách giả dối, không đứng đắn. Cái danh “Tiến sĩ” của ông ta cũng chỉ là “kẻ sĩ rởm”, mua được bằng tiền hay luồn cúi. Khi được đưa vào đình làng thờ cúng, thì “người ta gọi thế cũng đều nhịn cười”, cho thấy sự khinh bỉ của dân gian. Nhà thơ còn mỉa mai khi ông này “ngồi tít trên cao, kẻ lạy, người vái”, dù chẳng ai thực lòng kính trọng. Chi tiết “chết thì bày hàng mã ra đốt” khiến người đọc bật cười chua chát vì mọi thứ ông ta có chỉ là đồ giả. “Khói bay nghi ngút, giấy bay tơi bời” thể hiện sự phù phiếm, vô nghĩa của những giá trị hư danh. Cuối cùng, cái chết của ông ta cũng “nhẹ như lông hồng”, chẳng để lại dấu ấn gì. Toàn bài thơ là một bức tranh biếm họa sâu cay về những “tiến sĩ giấy” – học vị có mà không có học lực, danh có mà không có đức.
4 tháng trước
Bài thơ “Tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến mang đậm chất trào phúng, đả kích sâu cay thói hám danh, giả tạo trong xã hội. Hình ảnh "ông nghè giấy" chính là biểu tượng châm biếm những kẻ chỉ có cái danh mà không có thực tài. Tác giả sử dụng nhiều chi tiết trào phúng như: "đầu đội khăn xếp", "áo thụng", "tay cầm bút", "ngồi trong khám son", gợi hình ảnh đạo mạo nhưng lại chỉ là vật trang trí cho trẻ con chơi Tết. Những chi tiết như "lưng khoanh, tay chắp", "mắt vuốt râu", "mồm đọc câu mưa gió" khiến người đọc bật cười vì sự ngô nghê, làm ra vẻ tri thức của một món đồ chơi vô tri. Câu thơ "Cũng vênh váo ngồi mà giảng sách" châm biếm thái độ hợm hĩnh của kẻ vô dụng. Nguyễn Khuyến còn mỉa mai khi viết: “Nghĩ thân ông cũng đến phiền / Bụng văn mà chẳng bụng tiền thì sao”, phản ánh thói đời coi trọng tiền bạc hơn tri thức. Qua đó, nhà thơ đã vạch trần lối sống giả danh, vô học nhưng lại được tung hô của một số kẻ trong xã hội lúc bấy giờ.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
103198
-
Hỏi từ APP VIETJACK78870
-
Hỏi từ APP VIETJACK71786
-
Hỏi từ APP VIETJACK60081
-
Hỏi từ APP VIETJACK45961
-
36820
Gửi báo cáo thành công!
