Quảng cáo
3 câu trả lời 245
Bài thơ "Vịnh khoa thi hương" của tác giả Hồ Xuân Hương là một tác phẩm đặc sắc trong kho tàng thơ ca dân tộc. Bài thơ phản ánh những suy nghĩ, cảm xúc của nhà thơ về một kỳ thi hương – một hình thức thi cử truyền thống của xã hội phong kiến. Qua bài thơ, Hồ Xuân Hương không chỉ thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng ngôn từ, mà còn khắc họa rõ nét thực trạng của xã hội, đồng thời phản ánh sự bất công trong nền thi cử đương thời.
Hồ Xuân Hương (1772 – 1822) là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng của Việt Nam, được biết đến với những bài thơ đậm chất trí thức, giàu tính phê phán xã hội. Bà không chỉ là một thi sĩ tài ba mà còn là người phụ nữ có những quan điểm khá độc đáo về xã hội và cuộc sống. Trong số các tác phẩm của Hồ Xuân Hương, bài thơ "Vịnh khoa thi hương" là một tác phẩm tiêu biểu cho sự phê phán, mỉa mai trong việc phản ánh đời sống xã hội, đặc biệt là hệ thống thi cử phong kiến.
Bài thơ "Vịnh khoa thi hương" phản ánh không khí của một kỳ thi hương với những cảm nhận đầy chua chát của tác giả. Thi cử trong xã hội phong kiến là con đường duy nhất để người trí thức có thể tiến thân, nhưng Hồ Xuân Hương đã sử dụng những hình ảnh mỉa mai, châm biếm để chỉ ra sự bất công, khắc nghiệt của nền thi cử đương thời.
Bài thơ của Hồ Xuân Hương không chỉ thể hiện niềm mong mỏi, hy vọng của thí sinh mà còn là sự bức xúc đối với nền thi cử phong kiến. Trong kỳ thi hương, sự bất công thể hiện rõ ràng. Cụ thể, thí sinh muốn đỗ đạt cần phải có sự "quyết định" từ các quan lại, những người có quyền lực. Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc xét duyệt và chấm điểm. Hồ Xuân Hương đã sử dụng những câu thơ mang tính châm biếm để chỉ trích tình trạng "thi cử vì tiền, vì quyền thế". Cô không ngần ngại phê phán sự khắt khe và đầy mưu mô trong việc tổ chức các kỳ thi.
Trong bài thơ, Hồ Xuân Hương đã sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng để làm nổi bật sự khắc nghiệt của kỳ thi hương. Mỗi khung cảnh, mỗi hình ảnh trong bài thơ đều là những ẩn dụ cho sự gian khổ mà các thí sinh phải trải qua. Cảnh thi cử đã được tác giả khắc họa như một cuộc đấu tranh đầy cam go, mệt mỏi, và không phải lúc nào cũng đạt được kết quả như mong muốn. Hình ảnh "con đường thi cử" trong bài thơ dường như là một con đường đầy cạm bẫy, đầy rẫy những thử thách và trở ngại.
Hồ Xuân Hương không chỉ phê phán những người tổ chức kỳ thi mà còn mỉa mai cả những người tham gia thi cử. Cô cho rằng kỳ thi hương không phải là con đường duy nhất để thành công, mà nó chỉ là một cuộc "đấu tranh" không cần thiết và đầy những gian lận, mưu mô. Tác giả sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, đậm chất châm biếm để thể hiện sự thiếu công bằng trong việc thi cử. Cô chỉ trích thái độ xu nịnh của các thí sinh và những người tổ chức, thể hiện sự thất vọng về một xã hội mà ở đó, tài năng và đạo đức không phải là yếu tố quyết định sự thành bại.
Ngôn ngữ sắc sảo và đậm chất mỉa mai: Hồ Xuân Hương sử dụng ngôn ngữ rất sắc sảo, có sự kết hợp giữa tiếng cười và nước mắt, giữa sự mỉa mai và sự đau đớn. Các hình ảnh trong bài thơ đều mang tính tượng trưng và biểu cảm cao, thể hiện sự sâu sắc trong quan sát và suy nghĩ của tác giả.
Biện pháp đối lập: Bài thơ cũng sử dụng biện pháp đối lập rất hiệu quả. Sự đối lập giữa hình ảnh tươi đẹp, đầy hy vọng của kỳ thi và thực tế đầy thất vọng, bất công mà thí sinh phải đối mặt, càng làm nổi bật lên sự bất công của nền thi cử phong kiến.
Bài thơ "Vịnh khoa thi hương" không chỉ là một tác phẩm thể hiện sự phê phán sắc sảo của Hồ Xuân Hương đối với xã hội đương thời mà còn phản ánh những vấn đề xã hội sâu sắc, nhất là vấn đề về hệ thống thi cử và giáo dục phong kiến. Bài thơ không chỉ giúp người đọc hiểu về một thời kỳ lịch sử mà còn khiến chúng ta suy ngẫm về giá trị của tri thức và sự công bằng trong việc đánh giá con người.
Bài thơ "Vịnh khoa thi hương" của Hồ Xuân Hương là một tác phẩm đậm tính châm biếm, phản ánh những khía cạnh tiêu cực của nền thi cử phong kiến. Thông qua bài thơ, Hồ Xuân Hương đã lên án sự bất công, sự gian lận trong kỳ thi và khẳng định rằng không phải tài năng hay nỗ lực cá nhân mà chính là quyền lực, tiền bạc mới quyết định sự thành bại của con người. Bài thơ là một lời nhắc nhở về sự bất công trong xã hội phong kiến và là tiếng nói mạnh mẽ của tác giả đối với những bất bình trong xã hội.
Chắc chắn rồi, tôi sẽ phân tích bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Trần Tế Xương. Bài phân tích này sẽ tập trung vào cấu trúc, chủ đề, các yếu tố nghệ thuật và ý nghĩa của bài thơ.
## **Mở Đầu**
Trần Tế Xương, hay còn gọi là Tú Xương, là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của Việt Nam cuối thế kỷ 19. Thơ của ông thường phản ánh hiện thực xã hội đương thời với giọng điệu châm biếm, đả kích sâu cay. Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, thể hiện cái nhìn biếm họa về một kỳ thi Hương thời phong kiến Việt Nam dưới sự đô hộ của thực dân Pháp.
## **Phân Tích Chi Tiết**
Bài thơ thất ngôn bát cú này có thể được chia thành bốn phần chính:
* **Đề (Hai câu đầu):** Giới thiệu khái quát về kỳ thi.
> Nhà nước ba năm mở một khoa,\
> Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Hai câu này cho thấy sự kiện được mô tả là kỳ thi Hương, một kỳ thi quan trọng trong hệ thống khoa cử. Tuy nhiên, việc "Trường Nam thi lẫn với trường Hà" đã gợi ra một sự xáo trộn, bất thường, vì theo lệ thường, mỗi trường thi sẽ tổ chức thi riêng.
* **Thực (Hai câu tiếp):** Miêu tả cảnh tượng hỗn loạn, nhố nhăng của kỳ thi.
> Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,\
> Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Hai câu này vẽ nên một bức tranh biếm họa về những người tham gia kỳ thi. "Sĩ tử vai đeo lọ" gợi lên hình ảnh những người đi thi nhếch nhác, thiếu trang nghiêm. "Quan trường miệng thét loa" cho thấy sự ồn ào, mất trật tự của trường thi, nơi lẽ ra phải tôn nghiêm, tĩnh lặng.
* **Luận (Hai câu tiếp):** Phản ánh sự can thiệp của thực dân Pháp vào kỳ thi.
> Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,\
> Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Sự xuất hiện của "quan sứ" (chức quan người Pháp) và "mụ đầm" (vợ quan Pháp) cho thấy quyền lực của thực dân Pháp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Hình ảnh "lọng cắm rợp trời" và "váy lê quét đất" tạo nên một sự tương phản rõ rệt với sự nhếch nhác, lộn xộn đã được miêu tả ở phần trên, làm nổi bật sự lố bịch, kệch cỡm của tình cảnh này.
* **Kết (Hai câu cuối):** Thể hiện tâm trạng của nhà thơ trước hiện thực xã hội.
> Nhân tài đất Bắc nào ai đó,\
> Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Hai câu này là một lời than thở, một lời kêu gọi những "nhân tài đất Bắc" hãy nhìn lại tình cảnh đất nước, nhận ra nỗi nhục mất chủ quyền. Câu hỏi tu từ "nào ai đó" thể hiện sự hoài nghi, thất vọng của nhà thơ về vai trò của những người trí thức trong xã hội.
## **Chủ Đề và Ý Nghĩa**
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" tập trung vào các chủ đề chính sau:
* **Sự suy thoái của nền khoa cử phong kiến:** Kỳ thi Hương vốn là một sự kiện quan trọng để tuyển chọn nhân tài cho đất nước, nhưng dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, nó đã trở thành một trò hề, một biểu tượng của sự suy đồi về văn hóa, giáo dục.
* **Sự can thiệp của thực dân Pháp vào xã hội Việt Nam:** Bài thơ cho thấy thực dân Pháp không chỉ nắm quyền lực chính trị mà còn can thiệp sâu vào các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục, khoa cử.
* **Nỗi nhục mất chủ quyền, mất nước:** Bài thơ thể hiện sự đau xót, tủi hổ của nhà thơ khi chứng kiến đất nước bị đô hộ, nền văn hóa truyền thống bị xâm phạm.
* **Lời kêu gọi lòng yêu nước, tinh thần dân tộc:** Mặc dù giọng điệu chủ đạo của bài thơ là châm biếm, đả kích, nhưng ẩn sâu trong đó là một tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Nhà thơ muốn thức tỉnh những người trí thức, kêu gọi họ nhận ra trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của đất nước.
## **Yếu Tố Nghệ Thuật**
Bài thơ sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm nổi bật chủ đề và ý nghĩa:
* **Nghệ thuật trào phúng:** Đây là yếu tố nổi bật nhất trong bài thơ. Tú Xương đã sử dụng ngôn ngữ hài hước, biếm họa để miêu tả các nhân vật, sự kiện, tạo ra tiếng cười châm biếm, đả kích sâu cay.
* **Nghệ thuật tương phản:** Sự tương phản giữa sự tôn nghiêm của kỳ thi Hương truyền thống và sự nhếch nhác, lộn xộn của kỳ thi dưới thời Pháp thuộc, giữa sự long trọng của "quan sứ" và sự lôi thôi của "sĩ tử", đã làm nổi bật sự suy đồi của xã hội.
* **Ngôn ngữ bình dân, đời thường:** Tú Xương sử dụng nhiều từ ngữ thông tục, gần gũi với đời sống hàng ngày, giúp bài thơ trở nên dễ hiểu, dễ đi vào lòng người.
* **Câu hỏi tu từ:** Câu hỏi "Nhân tài đất Bắc nào ai đó" ở cuối bài thơ có tác dụng gợi mở, khơi gợi suy nghĩ, cảm xúc của người đọc về trách nhiệm của bản thân đối với đất nước.
## **Kết Luận**
"Vịnh khoa thi Hương" là một bài thơ trào phúng xuất sắc của Tú Xương, phản ánh chân thực hiện thực xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 19 dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Bằng giọng điệu châm biếm sâu cay, ngôn ngữ bình dân, hình ảnh biếm họa, Tú Xương đã vạch trần sự suy thoái của nền khoa cử phong kiến, đồng thời thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Bài thơ có giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc, vẫn còn nguyên giá trị thời sự cho đến ngày nay.
Tú Xương là một nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ châm biếm, hài hước trên diễn đàn thơ ca Việt Nam. Trong sự nghiệp đồ sộ của mình, ông có tới mười ba bài vừa thơ vừa phú nói thuộc đề tài "thi cử" với thái độ mỉa mai, phẫn uất với chế độ thi cử đương thời. "Vịnh khoa thi Hương" là bài thơ trong số mười ba bài thơ đó. Qua bài thơ, Tú Xương muốn vẽ nên cái hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội nửa thực dân nửa phong kiến qua hình ảnh một kì thi Hương quan trọng cũng đồng thời mượn đó nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước.
"Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà".
Pause 00:00
00:01
01:31
Mute
"Vịnh khoa thi Hương" là một bức tranh chân thực sống động về chế độ thi cử của Việt Nam những năm cuối triều Nguyễn, trước con mắt giám sát của bọn thực dân Pháp. Đó là một bức tranh một kì thi long trọng mà lại được tổ chức thật là lố lăng, nhốn nháo.
Mở đầu bài thơ, Tú Xương đã khéo léo dẫn vào trong thơ của mình hình ảnh của một kì thi hương với những đặc điểm giống và khác so với trước kia. Thứ nhất, kì thi hương được "nhà nước" mở ba năm một lần như thường lệ.
"Nhà nước ba năm mở một khoa"
Đây là đặc điểm quy định bình thường của lệ thi cử nước nhà xưa nay. Thế nhưng, đặc điểm thứ hai mới làm cho người ta kinh ngạc.
"Trường Nam thi lẫn với trường Hà"
Vốn là hai nơi khác nhau, hai trường thi khác nhau, vậy mà năm nay thí sinh của hai trường này lại ngồi trộn "lẫn" với nhau. Lý do là vì khi thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, trường thi ở Hà Nội bị bãi bỏ, "nhà nước" dồn các sĩ tử ở Hà Nội phải xuống trường Nam Định để thi. Đây là điểm bất thường mà năm nay mới. Hơn thế, Tú Xương cũng dùng ở đây chữ "lẫn" để diễn tả khung cảnh nhốn nháo, ô hợp của trường thi, đối lập với sự trang nghiêm cần có trong một kì thi hương quan trọng của triều đình.
Hai câu đề đã làm tốt vai trò mở đầu, giới thiệu của nó, để đến hai câu tiếp theo, người đọc được chứng kiến, kiểm nghiệm ngay cái sự nhốn nháo đã nói ở trên:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Một khung cảnh thật là tạp nham, thật là nhốn nháo. Nào là sĩ tử đi thi, nào là quan lại coi thi cứ nhốn nháo hết cả lên, chẳng có quy cách của một kì thi hương quan trọng của triều đình. Hai nhân vật chính trong kì thi được bộc lộ, khắc họa thật rõ nét. Đồng thời cũng cho người đọc chúng ta thấy được cái tính cách, quy cách của trường thi năm nay thật khác biệt so với thời xưa. "Sĩ tử" là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng, vậy mà ở đây toàn thấy là sự luộm thuộm, lôi thôi với bao nhiêu chai với lọ, thật nhếch nhác quá đỗi. Tú Xương đã cố ý đảo chữ "lôi thôi" lên đầu câu để nhấn mạnh cái sự nhếch nhác của các sĩ tử trong mùa thi hương lần này. Hình ảnh cái "lọ" - vốn được cho là đựng mực, đựng nước uống của sĩ tử, nhưng lại "đeo" trên vai. Nghe sao có vẻ mỉa mai đến thế. Cái hình ảnh ấy như đang gợi lên sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lếch thếch của những kẻ sau này vốn sẽ trở thành những trụ cột tương lai của đất nước. Và hơn thế, ông cũng muốn nhấn rằng những kẻ "vai đeo lọ" kia là những kẻ sĩ, những kẻ có tri thức trong xã hội mà lại không thể giữ cho mình cái phong thái mang danh kẻ sĩ ấy.
Không chỉ vậy, Tú Xương cũng nhấn mạnh thật kĩ hình ảnh của lũ "quan trường" - quan coi thi ở trường thi. Ông cũng đã tìm ra cho chúng một từ ngữ thật xứng đáng "ậm ọe".
"Ậm ọe quan trường miệng thét loa"
Nếu như lũ sĩ tử "lôi thôi", nhếch nhác bao nhiêu thì lũ quan trường lại "ậm ọe", lố lăng bấy nhiêu. Quả đúng là một từ ngữ sáng tạo xứng danh cái tên Tú Xương. Cái âm thanh "ậm ọe" ấy chỉ là những thanh âm ú ớ, không rõ tiếng rõ lời, nhưng lại được gân lên bằng sự la lối của đám quan lại trường thi. Nó cũng miêu tả cái sự phách lối, giáo điều, ra vẻ của đám quan trường ấy. Tú Xương đã đóng vai một nhà nhiếp ảnh để thu lại những hình ảnh chân thực nhất ở trường thi năm ấy. Bởi thi hương xưa có số lượng sĩ tử rất đông, diễn ra trên bãi đất trống, vậy nên phải dùng loa thì mới có thể nghe rõ được việc gọi tên. Thế nhưng, cái sự trang trọng trong việc gọi tên vào thi của kì thi hương ấy đã bị những kẻ làm quan kia lấn át, làm lu mờ bởi sự phách lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi mà chẳng có chút thực quyền nào. Cho nên, kì thi hương ấy, không chỉ đám sĩ tử mất đi cái phong thái của một kẻ sĩ học chữ Nho mà đám quan lại cũng mất đi sự tôn kính, trang nghiêm của một kì thi lớn của đất nước.
Hai câu thơ đối nhau song song, làm nổi bật lên cái khung cảnh của trường thi. Nhưng trong đó, người ta thấy không chỉ là bóng dáng của trường thi với kì thi hương mà còn thấy khung cảnh hỗn tạp, nhốn nháo của đất nước khi rơi vào tình nửa thực dân nửa phong kiến. Và triều Nguyễn kia chẳng khác gì bức bình phong, một con rối bị điều khiển bởi chính quyền Pháp.
Chúng ta cũng thấy được ở trong câu thơ, cái sự mỉa mai đến tột độ của tác giả về triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, đồng thời, hai câu thơ tiếp, ông bộc lộ một sự mỉa mai, khinh ghét đối với chính quyền thực dân:
"Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra"
Vẫn trung thành với lối tả thực, Tú Xương tiếp tục vẽ lại bức tranh trường thi khi mà nó được viếng thăm bởi tên Toàn quyền người Pháp cùng vợ của hắn. Không phải ngẫu nhiên mà Tú Xương lại đặt hình ảnh này vào trong hai câu thơ chủ chốt của bài thơ. Bởi hình ảnh của một "ông Tây" với "bà đầm" phản ánh thật đúng với cái tình cảnh của nước ta thời bấy giờ. Đó là xã hội mà người dân trở thành nô lệ, triều đình là một bức bình phong còn thực quyền ở trong tay người Pháp. Một kẻ cướp nước mà lại được đến tham quan một trường thi quan trọng, lại được đón tiếp bằng "lọng" bằng "cờ" thì thật là sự long trọng, kính cẩn đầy mỉa mai.
Không chỉ vậy, quan Tây bà đầm còn được miêu tả là được ngồi lên vị trí cao nhất của trường thi. Tú Xương đang ám chỉ điều gì? Phải chăng là cảnh nước mất nhà tan đã diễn ra ngay trước mắt?
Thế nhưng, phải thật tinh tế mới nhận ra, Tú Xương đã dùng thơ Đường làm vũ khí để mỉa mai thật sắc bén, để bày tỏ thái độ của mình đối với lũ cướp nước kia.
Sử dụng nghệ thuật thơ đối xứng, Tú Xương đặt cái "váy" của bà đầm và cái "lọng" của ông quan Tây được đặt ngang bằng, ghép hai hình ảnh đó lại, người ta thấy đó là mỉa mai đầy châm biếm, câu thơ như "chửi thẳng" vào mặt viên quan sứ người Tây kia. Không chỉ thế, tác giả đã dùng từ "quan sứ" để nói về ông quan tây nhưng lại dùng từ "mụ đầm" khi nói về vợ của ông ta, đây chẳng phải là một sự khinh bỉ, một sự "chơi xỏ" mà Tú Xương dành cho viên Toàn quyền Pháp kia hay sao? Bởi ai cũng biết, từ "mụ" để chỉ những hạng đàn bà không ra gì, gọi vợ của "quan sứ" là "mụ" thì khác gì nói ông "quan sứ" kia chỉ là "thằng" mà thôi sao? Quả thật, cái chửi của Tú Xương sâu cay và thâm thúy đến nhường nào!
Thế mới thấy, thơ Tú Xương không chỉ miêu tả cái hiện thực lạnh lùng, tàn khốc mà còn lồng cả vào đó tiếng cười sâu cay, đắng ngọt, phơi bày trong đó cái tâm của một kẻ sĩ yêu nước, đau lòng vì nước mất nhà tan nhưng vì lực yếu sức mỏng mà đành dùng lời văn làm vũ khí cho mình.
Để đến cuối cùng, cái cười kia chẳng thể át nổi niềm đau xót trong tâm của ông, nó bật ra thành tiếng:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà".
"Đất Bắc" vốn là từ chỉ Hà Nội, là nơi hội tụ của ngàn năm kinh đô, là nơi của bậc đế vương ngự trị, nơi của anh tài khắp đất nước hội tụ về đây. Lời thơ như một tiếng than đau xót vô vàn của Tú Xương khi mắt phải nhìn thấy đất nước đang dần rơi vào tay giặc. Ông đang nói với chính mình hay là đang kêu gọi ai, ai còn nghĩ tới nỗi nhục mất nước, ai còn tự hào với dân tộc bốn ngàn năm lịch sử này chăng? Đọc câu thơ mà ta thấy sự xót xa, đau xót của tác giả trước tình cảnh của đất nước. "Nhân tài" ở đây chỉ ai, nó chỉ là một từ phiếm chỉ, là những kẻ đã từng một lần mơ ước được bước qua cánh cửa thi hương này, hay là những kẻ đã từng đặt chân đến đây hãy nhìn xem "cảnh nước nhà"?
Ở đây, Tú Xương không quyết liệt thể hiện tư tưởng kêu gọi mọi người chung tay dẹp loạn như trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:
"Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"
Ở thơ Tú Xương, người ta chỉ thấy gợi lên sự nhục nhã khi mất nước, không mạnh bạo, quyết liệt như thơ Nguyễn Đình Chiểu. Ổng chỉ chỉ ra sự làm ngơ của những kẻ sĩ yêu nước đã quay đầu, làm ngơ, không quan tâm đến, mắt thấy tai nghe để lũ giặc cướp nước và bè lũ tay sai của chúng làm tan nát đất nước của mình. Ông kêu gọi họ hãy "ngoảnh cổ mà trông" - "ngoảnh cổ" ngoái lại nhìn, để thấy, để chứng kiến đất nước đang suy tàn trước lũ giặc. Ở hai câu kết này, cái cười châm biếm của Tú Xương chẳng còn nữa mà nhường chỗ cho nỗi đau xót vô vàn khi đất nước lâm nạn. Dường như ta còn thấy được cả những giọt nước mắt của ông cả trong tiếng cười sâu cay kia.
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Tú Xương viết bằng thể thơ Đường thất ngôn bát cú. Với tài hoa, cùng nghệ thuật châm biếm sâu cay, ông đã dựng lên bức tranh về trường thi Hương những năm cuối triều Nguyễn với sự nhốn nháo, lố lăng của lũ quan trường, sự nhếch nhác của đám sĩ tử. Đồng thời, qua đó, ông cũng muốn vẽ lên cái hiện thực về xã hội phong kiến nửa thực dân bằng cái nhìn đầy mỉa mai của mình và gửi vào trong đó, tâm tư của một kẻ sĩ yêu nước trước tình cảnh của đất nước.
Vịnh khoa thi Hương là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Tú Xương vừa hiện thực lại vừa trữ tình. Qua đó khẳng định được tài năng của ông, khi chỉ cần vẽ lên một khung cảnh một kì thi Hương mà đã nói lên được cả cái bản chất của xã hội lúc bấy giờ.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
103321
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
78996 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
72110 -
Hỏi từ APP VIETJACK60182
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
46135 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
36904
