Quảng cáo
2 câu trả lời 614
Bài thơ "Mơ chút mùa đông Hà Nội" của Phan Thu Hà là một tác phẩm thể hiện những cảm xúc tinh tế, sâu sắc về mùa đông Hà Nội qua lăng kính của người yêu mến, gắn bó với mảnh đất này. Với những hình ảnh đặc trưng của mùa đông Thủ đô, bài thơ mang lại cho người đọc những cảm nhận riêng biệt về sự yên ả, lãng mạn và nét đẹp cổ kính của Hà Nội vào mùa đông. Ngoài giá trị về mặt nội dung, bài thơ còn có những đặc sắc về nghệ thuật khiến nó trở thành một tác phẩm sâu lắng, ấn tượng.
Chủ đề chính của bài thơ là nỗi nhớ mùa đông Hà Nội và những cảm xúc gắn bó với mảnh đất này. Phan Thu Hà sử dụng hình ảnh mùa đông Hà Nội để thể hiện nỗi nhớ nhung, yêu thương đối với nơi mình sống, cũng như nỗi hoài niệm về một thời đã qua. Mùa đông Hà Nội, qua sự miêu tả trong bài thơ, không lạnh lẽo, khô khan mà chứa đựng những khoảnh khắc tĩnh lặng, ấm áp trong tâm hồn người sống ở đó.
Bài thơ thể hiện sự tình yêu Hà Nội và sự hoài niệm về những ký ức đẹp đẽ gắn liền với mùa đông của thành phố. Hà Nội không chỉ là một nơi chốn mà còn là một phần ký ức, một phần không thể thiếu trong cuộc sống của những người con của đất thủ đô. Chính những mùa đông giản dị nhưng đầy yêu thương là những hình ảnh khắc sâu trong tâm trí của mỗi người.
Một trong những đặc sắc nổi bật của bài thơ chính là hệ thống hình ảnh đặc trưng của mùa đông Hà Nội. Phan Thu Hà không chỉ miêu tả mùa đông một cách chung chung mà khắc họa rất rõ những hình ảnh mang đậm dấu ấn của Hà Nội: cái lạnh se se, mùi hoa sữa, ánh đèn vàng lung linh, hay khung cảnh đường phố vắng lặng, tất cả tạo nên một không gian vừa yên bình vừa gần gũi.
Các hình ảnh thiên nhiên, như làn sương mờ, những chiếc lá rơi, cái lạnh thấm vào từng ngóc ngách của phố phường, đều tạo ra một không gian vừa gần gũi vừa đầy chất thơ. Những chi tiết nhỏ nhặt nhưng rất đỗi chân thực, như “mùi hoa sữa thơm tho”, “hơi lạnh”, hay “đèn vàng sáng lấp lánh” đã làm nổi bật vẻ đẹp thanh thoát của mùa đông Hà Nội.
Phan Thu Hà sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng lại mang đậm chất trữ tình, tạo cảm giác nhẹ nhàng, tinh tế. Những câu thơ không quá dài, dễ hiểu nhưng lại chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, vừa mộc mạc, vừa sâu sắc. Cấu trúc bài thơ chặt chẽ, các câu thơ có nhịp điệu đều đặn, hòa quyện, tạo nên một không gian thư thái, dễ chịu. Chính nhịp điệu ấy đã làm cho bài thơ như một bản hòa ca của mùa đông, vừa ấm áp, vừa tĩnh lặng.
Bài thơ sử dụng phương thức biểu cảm để truyền tải cảm xúc của tác giả, đồng thời cũng phản ánh tâm trạng của những người yêu mến Hà Nội. Phan Thu Hà đã khéo léo sử dụng sự hoài niệm và tình yêu như một sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại. Những lời thơ như “Mơ chút mùa đông Hà Nội” mang một chút buồn man mác, nhưng lại lấp đầy trong đó là sự yêu mến vô bờ với thành phố thân thương. Cảm xúc trong thơ không ồn ào, mà trầm lắng, dịu dàng như chính mùa đông của Hà Nội.
Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ quen thuộc như ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, qua đó làm tăng sự sinh động và cảm xúc trong từng câu chữ. Ví dụ, “người yêu mùa đông” hay “những bước chân vội vã” đều là những hình ảnh nhân hóa, khiến cho mùa đông Hà Nội trở nên gần gũi, có linh hồn.
Bài thơ "Mơ chút mùa đông Hà Nội" của Phan Thu Hà không chỉ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả đối với quê hương, đất nước. Chủ đề về mùa đông Hà Nội được khai thác một cách nhẹ nhàng, sâu sắc, thể hiện sự gắn bó, yêu thương và hoài niệm của người con Hà Nội.
Về mặt nghệ thuật, bài thơ có những nét đặc sắc riêng biệt với ngôn ngữ giản dị nhưng đầy cảm xúc, sử dụng những hình ảnh đặc trưng, giàu tính biểu cảm. Những biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hóa đã làm cho bài thơ trở nên sống động và đầy sức cuốn hút.
Tóm lại, "Mơ chút mùa đông Hà Nội" là một bài thơ hay, sâu sắc, vừa mang tính miêu tả, vừa đầy tính triết lý về sự gắn bó với mảnh đất Hà Nội thân thương, về tình yêu và nỗi nhớ sâu lắng của tác giả đối với nơi mình sinh sống. Bài thơ này đã khắc họa một mùa đông Hà Nội đẹp và yên bình, trong sáng và đong đầy cảm xúc.
Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ “Mộ” năm 1942, trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt đó là khi nhà thơ bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Trong suốt thời gian bị đày ải bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch người lính khổ sai Nguyễn Tất Thành thường xuyên bị áp giải từ nhà lao này đến nhà lao khác. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó người bình thường chắc chỉ thấy tiếng kêu rên ai oán số phận, còn với Bác người lính cách mạng có tinh thần thép thì đó chỉ là cái cớ để tâm hồn thi sĩ vút cao lên thành những áng văn thơ trữ tình dạt dào cảm xúc. Chẳng thế mà toàn bài thơ chúng ta không thấy bất kỳ hình ảnh đau khổ của người tù mà chỉ thấy khung cảnh thiên nhiên, con người nơi miền sơn cước vô cùng bình dị, quen thuộc với cuộc sống lao động thường nhật.
Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên đặc trưng của buổi chiều tối:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không"
Ánh mặt trời dần tắt hẳn, màn đêm chuẩn bị bao trùm lấy cảnh vật, đây là thời khắc con người, vạn vật sinh linh trên trái đất đều mệt mỏi và muốn tìm về với chốn bình yên để nghỉ ngơi. Đầu tiên là hình ảnh của chú chim đang mỏi cánh trên bầu trời, cánh chim ấy đã vất vả sau một ngày dài kiếm ăn khắp chốn, giờ là lúc nó tìm về với bóng cây, chốn yên bình để ngủ. Câu thơ thứ hai vẫn là nét chấm phá cảnh vật của thiên nhiên với hình ảnh của “cô vân”. Cô vân là chòm mây cô đơn, kết hợp với từ láy “mạn mạn” tức là trôi nhẹ, lơ lửng, vô định trên bầu trời. Chòm mây cô đơn lạc trôi trên bầu trời khá tương đồng với hoàn cảnh của người tù khổ sai, cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người. Trong lòng vẫn luôn đau đáu một ngày được trở về với đồng bào, quê hương.
Hai câu thơ sử dụng thủ pháp đối khá quen thuộc trong thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, đối giữa “cô vân” và “quyện điểu” để tạo nên một bức tranh thiên nhiên cân xứng, hài hòa. Một vài nét chấm phá đơn giản nhưng đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên thật hữu tình, nên thơ.
Hai câu thơ sau là hình ảnh của con người, con người của cuộc sống lao động hiện ra thông qua những nét vẽ thật khỏe khoắn, rắn rỏi:
"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng"
Hình ảnh cô gái xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm tối xuất hiện trong bài thơ là một nét vẽ bất ngờ nhưng rất hợp lý. Nó được cảm nhận thông qua cái nhìn của người tù khổ sai, nó mang một sức sống thật mạnh mẽ, tiềm tàng. Động tác xay ngô của cô gái nhịp nhàng, khỏe khoắn, từng vòng quay của chiếc cối đều, dứt khoát, “ma bao túc” rồi lại” bao túc ma hoàn”; phép lặp từ trong hai câu thơ nhấn mạnh sự cần mẫn, chăm chỉ của người lao động trong cuộc sống thường nhật, qua đó thể hiện cái nhìn trân trọng của thi sĩ dành cho con người nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh “lô dĩ hồng” xuất hiện ở cuối bài thơ, đó là một nhãn tự có sức nặng cân cả bài thơ. Chữ hồng xuất hiện đã xua tan không khí lạnh giá nơi xóm núi hoang sơ, nó như tiếp thêm sức sống và sức mạnh cho người tù khổ sai trên con đường đi tìm lối thoát cho dân tộc. Chữ “hồng” cũng thể hiện chất thép vốn rất đặc trưng trong tập “Nhật ký trong tù”. Nó cũng khẳng định vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại trong thơ của Hồ Chủ Tịch.
Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Thông qua bài thơ “Mộ” chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của nghị lực phi thường, tinh thần mạnh mẽ không lên gân, không khoa trương mà giản dị, khiêm nhường trong thơ của Hồ Chí Minh.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK5 198578
-
Hỏi từ APP VIETJACK150517
-
Hỏi từ APP VIETJACK33181