Quảng cáo
4 câu trả lời 1156
## Phân Tích Tác Phẩm Thơ Song Thất Lục Bát
Thơ song thất lục bát là một thể loại thơ truyền thống Việt Nam, mang đậm nét văn hóa và tâm hồn dân tộc. Với sự kết hợp giữa âm điệu du dương và nội dung sâu sắc, thể thơ này đã ghi dấu ấn trong lòng người đọc qua nhiều thế kỷ. Để hiểu rõ hơn về vẻ đẹp của thể thơ này, chúng ta có thể phân tích tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
### 1. **Cấu trúc và âm điệu**
Thể thơ song thất lục bát thường được kết hợp giữa hai dòng thơ thất ngôn và hai dòng thơ lục bát, tạo nên một nhịp điệu hài hòa và dễ nhớ. Trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính", nhà thơ đã khéo léo sử dụng âm điệu ngân nga, tạo cảm giác tự nhiên, như một bản nhạc trong trẻo. Sự lặp lại của âm thanh và hình ảnh giúp người đọc dễ dàng cảm nhận được tâm trạng và bối cảnh của nhân vật.
### 2. **Nội dung và hình ảnh**
Nội dung bài thơ xoay quanh hình ảnh của những người lính trẻ tuổi, gắn liền với những chiếc xe không kính. Hình ảnh này không chỉ phản ánh cuộc sống gian khổ của chiến tranh mà còn thể hiện tinh thần kiên cường, lạc quan của những người chiến sĩ. Dù thiếu thốn, họ vẫn can đảm đối mặt với hiểm nguy, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Hình ảnh "xe không kính" trở thành biểu tượng cho sự hi sinh và sự bền bỉ của người lính. Điều này không chỉ mang lại ấn tượng mạnh mẽ về sự thiếu thốn vật chất mà còn thể hiện tâm hồn cao đẹp của những người chiến sĩ. Họ xem thường những khó khăn trước mắt, vẫn giữ được tình yêu quê hương và lòng yêu nước.
### 3. **Tâm trạng và cảm xúc**
Trong tác phẩm, tâm trạng của những người lính được thể hiện rõ nét qua những câu thơ sống động. Họ không chỉ cảm nhận được nỗi đau, sự mất mát mà còn có tinh thần lạc quan, yêu đời. Câu thơ "Không có kính, nhưng không phải vì thế mà xe không đi" thể hiện ý chí mạnh mẽ, bất chấp mọi khó khăn, thử thách.
Ngoài ra, cảm xúc yêu thương đồng đội, tình bạn keo sơn cũng được khắc họa tinh tế. Những khoảnh khắc cùng nhau trải qua khó khăn, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, tạo nên một tình cảm sâu sắc, chân thành giữa những người lính.
### 4. **Ý nghĩa và giá trị**
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" không chỉ đơn thuần là một tác phẩm nghệ thuật mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc. Nó khẳng định sức mạnh của tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước và ý chí vượt lên khó khăn của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thể thơ song thất lục bát đã góp phần làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam, với những phẩm chất cao quý.
### Kết luận
Tóm lại, thơ song thất lục bát, qua tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính", không chỉ thể hiện vẻ đẹp của ngôn ngữ mà còn truyền tải những thông điệp sâu sắc về cuộc sống và con người. Thể loại thơ này xứng đáng được gìn giữ và phát huy, bởi nó không chỉ là di sản văn hóa mà còn là tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được sức mạnh của thơ ca trong việc phản ánh đời sống và tâm tư của con người.
Đã từ lâu, tình bạn đã được đề cập đến trong các tác phẩm văn học. Nguyễn Khuyến là nhà văn sở hữu số lượng lớn các bài thơ mang chủ đề rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày như thế. Nếu như trong Bạn đến chơi nhà, ông dùng giọng văn hóm hỉnh, khôi hài để nói về tình bạn không màng vật chất, thì sang bài thơ Khóc Dương Khuê, giọng thơ đã thay đổi hẳn. Cả bài thơ như tiếng khóc nấc lên trong sự buồn bã của Nguyến Khuyến khi đến đám tang của người bạn Dương Khuê. Đặc biệt trong 16 câu thơ cuối:
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày.
…
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”
Nỗi xót thương cho người bạn quá cố càng được thể hiện đậm nét.
Nguyễn Khuyến xuất thân là nhà nho, có tài văn chương, đỗ đầu cả ba kỳ thi nên còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông thường viết về gia đình, bạn bè, quê hương và châm biếm bọn thực dân. Bài thơ Khóc Dương Khuê ban đầu được viết bằng chữ Hán, sau được Nguyễn Khuyến dịch lại bằng chữ Nôm. Dương Khuê là bạn của Nguyễn Khuyến, mặc dù kém tuổi nhưng Dương Khuê cũng đỗ chức tước cao, trở thành tri âm của Nguyễn Khuyến. Mười sáu câu thơ cuối là nỗi đau đáu, thương xót của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi đột ngột của bạn.
Hai câu thơ mở đầu được nhà thơ viết bằng giọng văn khôi hài, nhưng chua xót, bộc lộ sự đau lòng của ông:
“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày.”
Quả thật, Nguyễn Khuyến hơn Dương Khuê bốn tuổi, nhưng Nguyễn Khuyến vẫn gọi Dương Khuê bằng giọng thân mật “tôi - bác”. Câu thơ “đau trước bác mấy ngày” sử dụng biện pháp ẩn dụ, ý chỉ sự ra đi của Dương Khuê quá đột ngột, khiến tác giả không thôi giật mình và đau đớn.
Trong bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc trầm lắng, đau thắt lòng:
“Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng mà mải lên tiên.”
Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm, nói tránh và biện pháp nói quá rất khéo léo,, ý nhị. Để chỉ sự ra đi của người bạn thân, ông dùng những từ “vội về ngay”, “chán đời”, “vội vàng”, “lên tiên”, với mục đích để giảm đi sự đau thương, nhưng sao câu thơ vẫn đau bội phần như vậy. Nói tránh đi sự ra đi của bạn, Nguyễn Khuyến phóng đại nỗi đau của mình “chân tay rụng rời”. Chắc hẳn, vì quá bất ngờ, ông đã không kìm được cảm xúc mà suy sụp, đau như “chân tay rụng rời”.
Trước kia, tất cả những thú vui trên cõi đời đều có ông và Dương Khuê hưởng thụ. Nhưng nay, những niềm vui đó bỗng trở nên chán chường, vô nghĩa bởi đã mất bạn rồi:
“Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gãy củng ngẩn ngơ tiếng đàn.”
Rượu luôn là thức uống yêu thích của thi nhân, thế nên mới có thi tửu. Nhưng rượu chỉ ngon khi được uống cùng bạn hiền. Biện pháp điệp từ “không” ba lần liên tiếp trong một câu thơ như nhân lên ba lần sự vô vị, không ham muốn thi tửu của Nguyễn Khuyến khi không có bạn. Hôm nay không mua rượu, không phải do không có tiền, mà là do không còn tri âm.
Bài thơ vẫn còn dang dở, chưa viết xong, bởi với ông, mất bạn rồi thì còn ai để đọc. Một lần nữa, biện pháp điệp ngữ lại xuất hiện, điệp từ “ai” và”đưa” hai lần, kết hợp với biện pháp chơi chữ “viết đưa ai” - “ai biết mà đưa”. Đây như một vòng luẩn quẩn, viết xong cũng không biết đưa cho ai, mà cũng không có ai để đưa. Mất đi Dương Khuê, Nguyễn Khuyến gần như mất đi cả một người đọc tri kỉ của mình.
Các sự vật tạo niềm vui khác như giường, đàn cũng mất đi sự sống, trở nên “hững hờ” và “ngẩn ngơ”. Đây là hai từ láy rất đặc sắc trong đoạn thơ, đồng thời là hai từ ngữ nhân hóa, khiến các sự vật tưởng như vô cảm ấy cũng đang hòa dần với nỗi đau mất mát bạn của nhà thơ. Sau cùng, thú vui để thưởng ngoạn với bạn, mất bạn rồi, thú vui cùng dần trở thành nỗi buồn sâu lắng.
Đau đớn là vậy, xót thương là vậy, nhưng Nguyễn Khuyến cũng đành chấp nhận sự thật rằng bạn đã đi xa:
“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương.
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”
Nguyễn Khuyến trách móc, hờn dỗi bạn khi “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở”. Đây là một điều vô lý nhưng hết sức hợp lý. Vô lý bởi Dương Khuê mất do tuổi già, nên cho dù nhà thơ có trách móc, van nài thì Dương Khuê cũng đâu thể nghe thấy được. Nhưng hợp lý là bởi, Nguyễn Khuyến quá nhớ thương Dương Khuê, mong muốn bạn ở lại với mình, nên mới buông lời mà trách nhẹ nhàng thế.
Mãi đến tận cuối bài thơ, ta mới thấy xuất hiện giọt nước mắt của nhà thơ. Nhưng sao giọt nước mắt ấy lại “như sương”, mà còn phải ‘ép” mới ra? Đọc đến đây, ta chợt nhớ lại giọt nước mắt cũng phải “ép” mới ra của Lão Hạc trong tác phẩm của Nam Cao. Một phần cũng là do tuổi cao nên khó chảy nước mắt. Nhưng phần nhiều, do lão quá đau khổ vì mất cậu Vàng, nên không thể khóc thành dòng được nữa. Cũng như vậy, Nguyễn Khuyến cũng nói một phần do “tuổi già”, nhưng thật ra, sâu trong thâm tâm, ông đau lòng đến độ thật khó để có “hai hàng chứa chan”. Nước mắt chảy ngược vào trong, như thể ông đang “nuốt” cái thương bạn vào trong bụng.
Bằng những câu thơ sử dụng ngôn ngữ bình dân mộc mạc, gần gũi, từng câu thơ chất chứa cảm xúc mãnh liệt, sử dụng tài tình biện pháp nhân hóa, phép điệp ngữ, biện pháp so sánh, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ lòng thương bạn, đau đớn muôn phần khi mất bạn, nhưng đồng thời cũng thể hiện thái độ chấp nhận sự thật. Đọc bài thơ, ta càng thêm trân trọng hơn những tình bạn đẹp đẽ, trong sáng giữa đời thường.
1tym 1sao nho my friend
**Phân Tích Tác Phẩm Thơ Song Thất Lục Bát**
Thơ ca Việt Nam, trong dòng chảy văn hóa dân tộc, luôn nổi bật với sự phong phú và đa dạng của các thể loại. Một trong những hình thức thơ tiêu biểu là thể thơ song thất lục bát. Thể thơ này không chỉ mang đậm bản sắc văn học dân tộc mà còn thể hiện sâu sắc tâm tư, tình cảm của người Việt trong từng câu chữ. Trong bài viết này, chúng ta sẽ phân tích một tác phẩm nổi bật của thể thơ này để thấy rõ giá trị nghệ thuật và tư tưởng trong đó.
Tác phẩm "Đập đá ở Cần Thơ" của tác giả Thanh Hải là một ví dụ điển hình cho thể thơ song thất lục bát. Bài thơ được viết trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt, khi mà đất nước đang phải đối mặt với những thử thách lớn lao. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã khắc họa hình ảnh của những người lao động cần mẫn, chịu đựng gian khổ để xây dựng quê hương. Những câu thơ đầu tiên gợi lên một bức tranh chân thực về cuộc sống của người dân miền Nam, nơi mà bóng dáng chiến tranh luôn hiện hữu.
Hình ảnh "đập đá" trong bài thơ không chỉ đơn thuần là một công việc nặng nhọc, mà còn trở thành biểu tượng cho sức mạnh ý chí của con người. Tác giả đã khéo léo sử dụng thể thơ song thất lục bát để tạo ra một nhịp điệu hài hòa, trữ tình nhưng cũng mạnh mẽ. Sự kết hợp giữa hai thể thơ, với những câu lục bát xen kẽ, tạo nên sự cân đối và thu hút, làm tăng sức truyền cảm cho tác phẩm.
Điều đặc biệt ở "Đập đá ở Cần Thơ" chính là sự chuyển tải tâm tư của tác giả. Thanh Hải không chỉ muốn ca ngợi công việc lao động mà còn gửi gắm ước vọng hòa bình và yêu nước. Những vần thơ ngợi ca sức mạnh ý chí của con người, từ đó khẳng định niềm tin vào tương lai tươi sáng. Câu thơ "Tổ quốc thương yêu, ngàn năm vẫn vững" như một lời khẳng định mạnh mẽ về sức mạnh kết nối của tình yêu quê hương, đất nước.
Ngoài ra, người đọc còn nhận thấy sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên trong bài thơ. Hình ảnh thiên nhiên trong tác phẩm được mô tả sống động, thể hiện sức sống mãnh liệt của cuộc sống dù ở trong hoàn cảnh khó khăn. Điều này không chỉ phản ánh tinh thần lạc quan của người dân Việt Nam mà còn ghi nhận vẻ đẹp của quê hương, nơi mà con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau.
Cuối cùng, kết thúc bài thơ là một lời kêu gọi thống nhất, yêu thương, đoàn kết. Những vần thơ như "Cùng nhau xây dựng hòa bình, tự do" không chỉ là một mong ước mà còn là một tầm nhìn sáng sủa về một tương lai tốt đẹp. Tác phẩm qua đó không chỉ khẳng định giá trị nhân văn sâu sắc mà còn thể hiện tâm hồn cao đẹp, khát vọng hòa bình của con người Việt Nam.
Tóm lại, tác phẩm "Đập đá ở Cần Thơ" của Thanh Hải trong thể thơ song thất lục bát là một bài thơ giàu hình ảnh, giàu giá trị tư tưởng. Nó thể hiện rõ nét tinh thần quyết tâm và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam trong những năm tháng ác liệt. Với nhịp điệu hài hòa và cảm xúc chân thành, bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một bản tuyên ngôn về khát vọng hòa bình, tự do của cả một dân tộc.
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong nền văn học trung đại của nước ta. “Qua Đèo Ngang” là một tác phẩm rất tiêu biểu cho phong cách thơ của bà. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng sự sống con người nhưng vẫn còn hoang sơ. Đồng thời nhà thơ còn qua đó gửi gắm nỗi nhớ nước thương nhà.
Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên nơi Đèo Ngang trong một buổi chiều tà:
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Cụm từ “bóng xế tà” gợi ra thời điểm kết thúc của một ngày. Nhà thơ đang một mình đứng trước nơi đèo Ngang. Tiếp đến câu thơ “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” là hình ảnh ước lệ mang tính biểu tượng, khắc họa khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang. Việc sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” thật tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang tuy hoang sơ nhưng lại tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên Đèo Ngang được nhà thơ khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.
Và không thể thiếu trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người. Nghệ thuật đảo ngữ “lom khom - tiều vài chú” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi. Và “lác đác - chợ mấy nhà” gợi ra hình ảnh vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Nhà thơ muốn nhấn mạnh vào sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên rộng lớn. Con người chỉ nằm là một chấm buồn lặng lẽ giữa một thiên nhiên rộng lớn. Thiên nhiên mới là trung tâm trong bức tranh đèo Ngang.
Thiên nhiên càng cô quạnh, tâm trạng của tác giả càng cô đơn. Điều đó được bộc lộ ở những câu thơ tiếp theo:
“Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”
Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh: tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” để qua đó bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương. Đọc đến đây, chúng ta dường như có thể lắng nghe được tiếng kêu khắc khoải, da diết đang vang lên trong vô vọng.
Câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” - tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta"
Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:
“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”
Trong “Bạn đến chơi nhà, từ “ta” đầu tiên chỉ chính nhà thơ - chủ nhà, còn từ “ta” thứ hai chỉ người bạn - khách đến chơi. Từ “với” thể hiện mối quan hệ song hành, gắn bó dường như không còn khoảng cách. Qua đó thể hiện tình bạn gắn bó tri âm tri kỷ của nhà thơ. Còn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ “ta với ta” ở đây đều chỉ nhà thơ, lúc này bà chỉ có một mình đối diện với chính mình, cô đơn và lẻ loi. Sự cô đơn ấy dường như chẳng thể có ai cùng chia sẻ.
Như vậy, Qua đèo Ngang đã thể hiện được tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan trước khung cảnh đèo Ngang hoang sơ. Bài thơ chứa đựng những tình cảm, ý nghĩa sâu sắc.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
247033 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
76509 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
60914 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
60669 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
51848 -
46168
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
43267 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
40569 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38190
