Phân tích hình ảnh bà cụ Tứ
Quảng cáo
3 câu trả lời 117
Có một lí do khiến người đọc cảm thấy ấn tượng khi đọc các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Kim Lân...bởi họ viết hay, viết thật. Mỗi khi đọc một trang văn, ta lại như sống cùng nhân vật đi qua những niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi đau đáu, bi ai. Đọc truyện ngắn "vợ nhặt" của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên như một điển hình về người đàn bà tuy sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực những tình yêu thương con vô bờ bến.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối với nạn đói khủng khiếp năm 1945. Kim Lân không tập trung miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc của nạn đói mà miêu tả vẻ đẹp tinh thần giấu sau vẻ bề ngoài xơ xác vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong hoàn cảnh ấy họ vẫn nhen nhúm niềm tin và hi vọng vào một tương lai tươi đẹp.
Hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, tuy nhiên bà cụ đã trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Dưới ngòi bút của Kim Lân, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận bất hạnh vì goá chồng, mất đứa con gái, chỉ còn một đứa con trai làm nghề kéo xe bò và cũng không được nhanh nhẹn như người ta. Có lẽ rằng tất cả những nỗi đau đã đè lên vai người phụ nữ đáng thương ấy. Hai mẹ con sống trong một căn nhà tồi tàn , rúm ró ở xóm ngụ cư và con trai bà có nguy cơ không có vợ. Chân dung nhân vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần qua diễn biến câu chuyện. Bắt đầu là "tiếng cười húng hắng ho", một bà lão với cái dáng "lọng khọng" từ đầu ngõ "vừa đi vừa lầm bẩm tính toán trong miệng". Tính từ "lọng khọng" rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái nghèo khổ. Chính cái nghèo khó cũng làm khuôn mặt bà một nét "bủng beo u ám". Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, chúng ta thấy được đó là người mẹ có cuộc đời khổ cực, bất hạnh.
Buổi chiều bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngõ đi vào, thấy thái độ khác thường của Tràng "reo lên như một đứa trẻ" và "lật đật chạy ra đón mình" thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng "phấp phỏng". Đó chính là biểu hiện của sự lo lắng, sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ đón mình trong nhà. Khi tới giữa sân, nhìn thấy một người đàn bà trong căn nhà vốn xưa nay chỉ có hai mẹ con, bà ngạc nhiên "đứng sững lại". Tác giả đã khéo léo sử dụng độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà cụ lúc này. Hàng loạt những câu hỏi được đặt ra trong đầu bà "quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? sao lại chào mình bằng u? không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Một loạt các câu hỏi cứ liên tiếp được đặt ra trong đầu bà cụ, nhưng bà cụ vẫn không tìm được câu trả lời, vì vậy bà đổ lỗi cho cặp mắt của mình, bà không tin vào mắt mình "bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải". Bà lão "nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào" nên bà quay sang hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình.
Khi người đàn bà lạ mặt ấy trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào "U đã về ạ", ngay cả tiếng chào thân thiết ấy cũng không làm bà cụ hiểu ra. "Ô hay, thế là thế nào nhỉ?" rồi bà lão "băn khoăn ngồi xuống giường". Mãi tới khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích "đây là nhà tôi", "chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau", "chẳng qua nó cũng là cái số cả". Lúc này bà lão mới bắt đầu hiểu ra và "cúi đầu nìn lặng", cái tư thế ấy ẩn chứa bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niểm mà không thể diễn đạt thành lời. Lúc này người đọc như hiểu được nội tâm bên trong cái vẻ tưởng chứng như già nua, cũ kĩ của bà. Bà đã hiểu ra con bà đã có vợ, bà hiểu ra những khó khăn, nghèo đói mà Tràng phải chịu đựng, rồi bà lại hiểu ra chính số phận bất hạnh của đờ bà khiến con bà rơi vào hoàn cảnh như hiện tại. Bà "xót thương cho số kiếp đứa con mình", sự ai oán đó vừa hướng tới chính bản thân bà, vừa hướng tới con bà, đó là một cảm xúc vừa tội nghiệp, vừa nhân hậu biết bao.
Cảm xúc trong bà càng cụ thể "chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì..." Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn khổ đang rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ già chất chứa sự so sáng con người và con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng. Sự so sánh ấy không chỉ làm nổi bật sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình mà còn là lời tự trách bản thân, sự day dứt trong lòng bà, điều đó thể hiện lòng nhân ái thương con tha thiết.
Cảm xúc xót thương của bà còn thể hiện qua sự lo lắng "biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không". Có lẽ vừa tủi phận mình, vừa thương con khiến cho "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hau dòng nước mắt". Bà cố kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào trong lòng vốn đã chất chứa đầy sự đau khổ,tủi nhục. Những giọt nước mắt cứ lặng lẽ rỉ ra từ đôi mắt khô cằn ấy.
Diễn biến câu chuyện được đẩy lên đỉnh điểm, cả ba nhân vật được Kim Lân khắc hoạ đều có tâm trạng căng thẳng, Tràng và người "vợ nhặt" hồi hộp chờ đợi người mẹ lên tiếng, như hiểu ra câu chuyện, sự đau buồn khiến cho bà lão khẽ "thở dài", bà muốn giấu đi nỗi buồn, nỗi đau đáu trong lòng để hướng tới người đàn bà lạ ấy. Bà "đăm đăm nhìn người đàn bà" khi thị "cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt". Bà lão không chỉ nhìn người con dâu bằng mắt mà bằng cả tấm lòng của bà. Bà nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..." Trong suy nghĩ của người mẹ ấy, Thị chính là người mang ơn và con tra bà chính là người chịu ơn. Điều đó chứng tỏ bà không hề coi thường khinh bỉ người vợ nhặt mà còn cảm thông trân trọng dù cho Thị có là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không gia đình. Bà lão lại tiếp tục day dứt "chẳng lo lắng được cho con..." Bà phó thác, chông chờ vào sự may rủi "may ra mà qua khỏi được cái đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ông giời bắt chết cũng phả chịu chứ biết làm thế nào lo cho hết được. Hoàn cảnh thật bi đát khốn cùng, mặc dù lo lắng, đau buồn những người mẹ già đã ấm thầm chấp nhận nàng dâu mới. Sau khi "khẽ dặng hắng một tiếng", bà lão "nhẹ nhàng" nói "Ừ thì thôi các con phảu duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...". Hai tiếng "mừng lòng" mà bà lão nói với các con thật chân thật, chất phác, chân tình biết bao, lời nói ấy thật xúc động đối với người "vợ nhặt" đáng thương kia.
Bà mẹ nghèo khổ nhân hậu thấu hiểu hoàn cảnh và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bất đắc dĩ trở thành con dâu của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm diễn tả tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Cảm xúc như những đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ nghèo khổ, những cảm xúc ấy khiến người đọc xót xa với tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà con phải lo cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng.
Bà cụ tâm sự, dặn dò các con mình "nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá....biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau". Trong lời tâm sự của bà có những lời thành thật "nhà ta thì nghèo", vì vậy bà nhắc nhở các con của mình bảo ban nhau làm ăn, lời động viên của bà thể hiện sự lạc quan vào tương lai tươi sáng của các con bà cũng như cuộc đời bà, từ nay trong nhà đã có nàng dâu mới, chia sẻ gánh nặng với bà, đó là lời động viên đáng quý giúp các con bà vượt qua giai đoạn khó khăn.
Tâm trạng của bà buồn vui xen lẫn, bà vẫn đau đáu cái nghèo đeo bám "đăm đăm nhìn ra ngoài . Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mòi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài", cái thở dài ấy là sự bất lực về thân phận của bà, trong kí ức đau buồn của bà "nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình". Tất cả như một cuốn phim tấn bi kịch cuộc đời bà, bà lo sợ tương lai của các con có giống như cuộc đời bà "vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?". Dù tâm trạng đầy bất an, nhưng bà vẫn niềm nở đối với người con dâu của mình "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân", câu nói ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa mẹ chồng- nàng dâu, an ủi nàng dâu mới. Lời nói của bà là sự thương xót với con dâu mình "bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi". Bằng những lời nói thân mật, bà tâm sự "kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi lúc này. Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".Bà cụ hiểu rằng khi cưới xin cho con cần phải làm vài ba mâm cỗ trước hết là báo cáo với ông bà tổ tiên, sau là ra mắt bà con xóm làng, bà cũng hiểu trong hoàn cảnh đói kém này chẳng ai chấp nhặt, tính toán. Nói tới đây bà cụ "nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy ròng ròng, những giọt nước mắt ấy là tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo.
Nếu như chiều hôm trước tâm trạng cả bà cụ hỗn độn xen lẫn lo âu thì sáng hôm sau tâm trạng bà tràn ngập niềm vui. Niềm vui ấy được thể hiện trên khuôn mặt của người mẹ rõ ràng "bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên", "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa" với ý nghĩ "thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn". Bà vui mừng vì con trai bà đã yên bề gia thất, gia đình bà có thêm thành viên mới. Bữa ăn đầu tiên khi nhà có dâu mới chỉ vỏn vẹn "rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo" nhưng "toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này". Những câu chuyện ấy không có chuyện quá khứ mà chỉ có những câu chuyện về tương lai tốt đẹp sau này, câu chuyện thật giản dị "Tràng ạ, khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà con mà xem..." Chính câu chuyện đó đã làm cho không khí đầm ấm hơn, nhưng cái nghèo thì vẫn đeo bám họ "câu chuyện trong bữa ăn bỗng ngừng lại. Liêu cháo lõng bõng mỗi người được có lưng hai bát đã hết nhẵn". Thế nhưng bà lão "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút" bà lão với giọng dí dỏm "chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Bà lão muốn xua đi không khí ảm đạm, lạc quan giữa tình cảnh khốn khó, nhưng bên trong tâm hồn người mẹ ấy, là những nỗi lo âu. Món ăn đặc biệt ngày đón nàng dâu là "chè khoán" và khẳng định "xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Chi tiết này khiến người đọc cảm nhận được tình thương, tấm lòng đáng quý của bà, kết đoạn là giọt nước mắt của người mẹ già, nhưng "không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".
Nhà văn Kim Lân đã diễn tả sâu sắc và tinh tế tâm lí bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ nhưng tình yêu con vô bờ bến. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối của hiện tại cũng như cuộc đời bà mà hướng tới tương lai tươi sáng của các con. Trong văn học Việt Nam hình ảnh người mẹ luôn hiện lên với lòng bao dung, vị tha giàu đức hi sinh. Qua truyện ngắn "Vợ nhặt" nhà văn đã tạo dựng lên một hình ảnh về người mẹ nghèo khổ, hết lòng vì con, với ngòi bút tinh tế đã lột tả được diễn biến tâm lí của bà cụ qua từng lời nói, suy nghĩ, hành động. Phải là người có tấm lòng nhân hậu, sự thấu đời mới có cái nhìn chân thực như thế.
"Vợ nhặt" không chỉ đơn giản là những trang văn mà chính là những mảnh đời khổ cực, nghèo khổ. Nhưng trong cái nghèo khổ ấy, họ vẫn toát lên nhân cách cao quý. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến chúng ta cảm động sâu sắc trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ già, bà chính là ánh sáng trong đường hầm tố tăm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở lên cảm động, đọng lại trong lòng người đọc những suy nghĩ và rung động.
Dàn ý Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt
a) Mở bài
- Giới thiệu nhà văn Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt
- Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ: đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam.
b) Thân bài
* Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ
+ Là một bà mẹ nghèo khổ, góa bụa, già nua - ốm yếu, là dân ngụ cư (dân ở nơi khác đến, thường bị dân bản sứ coi rẻ).
+ Bà sống với anh con trai - chỉ là một anh phụ xe nghèo.
+ Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
* Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
- Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng” -> tâm lý bất an, phân vân hồi hộp; "đứng sững lại" - bà giật mình bởi vì sự xuất hiện của người đàn bà lạ mà con trai mang về; "hấp háy cặp mắt" - thói quen của người có tuổi - đây là hình ảnh gợi tả sự ngạc nhiên và tò mò muốn nhìn rõ hơn.
-> Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên, tâm lí bị động trước sự việc.
- Sau khi hiểu ra:
+ Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt
+ Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.
+ Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai
- Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất, chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về.
- Bà cụ Tứ dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:
+ Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây... đỡ mỏi chân”
+ Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
+ Bảo ban các con làm ăn
=> Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.
c) Kết bài
- Cảm nhận riêng về hình tượng bà cụ Tứ.
Đoạn trích Vợ nhặt của Kim Lân đã thành đề tài bàn luận không chỉ của tác giả mà còn của nhiều độc giả đón đọc. Thành công của tác phẩm không dừng lại ở việc khắc họa hiện thực xã hội đói nghèo và thiếu thốn, người chết như ngả rạ, khắp nơi bao trùm bởi không khí tang thương mà còn là vẽ ra những mảnh đời, những câu chuyện bình dị nhưng vô cùng ý nghĩa. Bên cạnh Tràng - nhân vật chính của câu chuyện, còn có chị vợ và bà cụ Tứ, mẹ của Tràng. Tuy xuất hiện ít hơn nhưng nhân vật bà cụ Tứ để lại nhiều ấn tượng và sự thương cảm trong lòng người đọc.
Qua miêu tả của Kim Lân, bà cụ Tứ là một bà cụ tuổi đã già, những cử chỉ của bà chứng tỏ bà là người bắt đầu bước sang tuổi già yếu, mắt kèm nhèm, vì hoàn cảnh đói nghèo thiếu thốn cho nên bà có khuôn mặt bủng beo, u ám, bước đi chậm rãi. Những hành động của bà không còn nhanh nhẹn mà chậm rãi và từ từ, như sợ mình không thể làm được mọi thứ một cách nhanh gọn như thời còn trẻ. Nhưng dáng vẻ đó của bà cụ Tứ thay đổi khi bà lần đầu nhìn thấy Tràng - đứa con trai tội nghiệp, vì đói nghèo, khổ ải mà không lấy được vợ, không gây dựng được hạnh phúc gia đình. Như lời bà nói thì đến cái thân mình còn lo chưa nổi nữa là lo đèo bòng. Nhưng số kiếp, duyên số đã vồ lấy nhau thì có muốn tránh cũng không được, mắt bà cụ hấp háy như thể xác minh lại điều mình thấy đã đúng chưa hay chỉ là do tuổi già. Người phụ nữ ngồi trên giường, tay vin vào áo, vừa e thẹn rồi lại cất tiếng chào u.
Bà cụ Tứ dù sống trong kiếp sống nghèo khổ nhưng không thể phủ nhận rằng, ở bà vẫn tồn tại một nỗi niềm và tình yêu thương vô bờ bến mà bà đã dành cho con của mình. Từ bây giờ đứa con dâu kia cũng trở thành con một nhà. Hoàn cảnh thiếu thốn nhưng không có gì là không làm được. Từ hai bàn tay có thể làm được nhiều điều hơn nữa, không chỉ dừng lại ở việc lôi nhau về rồi cuối cùng chịu số phận kiếp nạn đói nghèo mãi được. Bà rơi nước mắt vừa mừng vừa tủi cho bọn chúng - đứa con trai và con dâu tội nghiệp của bà. Khóc vì cuối cùng con trai bà cũng lấy được vợ, nhưng khóc vì tương lai đói nghèo, cái đói còn đeo đuổi những con người này tới bao giờ. Bà rồi mai này già yếu bà không lo, nhưng còn những đứa con, không biết cái đói sẽ khiến bà đi tới đâu về đâu.
Dù sống trong hoàn cảnh nào nhưng bà cụ Tứ vẫn lạc quan niềm tin yêu vào cuộc đời, và tương lai của hai đứa con của bà. Niềm vui nho nhỏ của một người mẹ già yếu chính là thấy những đứa con của mình no ấm hạnh phúc. Bạn muốn thay đổi diện mạo cuộc sống, muốn mọi thứ trở nên sạch sẽ và tinh tươm, không còn tù mù như trước nữa. Dặn dò những đứa con của mình, bà cũng mong muốn chúng bắt đầu cuộc sống và bước sang một trang mới. Cuộc sống của dâu mới không được danh chính ngôn thuận cưới về, không có mâm bàn mời bà con lối xóm, nhưng chắc chắn một điều rằng, từ nay trở đi bà đã có thêm một đứa con. Sáng sớm tinh mơ mọi thứ được dọn dẹp sạch sẽ, bụi quang rậm cũng được phát bỏ. Một chi tiết được tác giả gây dựng khiến độc giả vừa ngậm ngùi thương xót chính là hình ảnh mà bà cụ Tứ lễ mễ bưng một nồi nghi ngút. Bữa cơm đón dâu mới theo lời bà cụ nói là “chè“ nhưng thực chất chỉ là cám. Miếng cám đến mặn chát và đắng ngắt khiến cho cô con dâu nghẹn ứ, mặt xám lại, không ai nói với ai một lời. Nhưng thông qua lời nói của bà, cách bà gọi đây là chè khiến cho cuộc sống nghèo khổ bớt nhạt nhẽo.
Như vậy, bà cụ Tứ tuy xuất hiện ít trong đoạn trích nhưng những gì bà để lại khiến bản thân chúng ta phải suy ngẫm. Đó là một người phụ nữ giàu lòng thương yêu và đức hi sinh. Cuộc đời bà như thế nào cũng được nhưng còn con của bà, chúng phải thay đổi và cuộc sống của chúng sẽ tốt lên. Bà cụ Tứ còn gieo vào những người con của mình một niềm tin yêu, lạc quan vào cuộc sống và về tương lai sau này.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK68975
-
53688
-
Hỏi từ APP VIETJACK1 40101
-
Hỏi từ APP VIETJACK3 26775