Minh Dương
Sắt đoàn
5
1
Câu trả lời của bạn: 16:45 05/05/2023
Tố Hữu được coi là lá cờ đầu trong nền thơ ca Cách mạng và kháng chiến. Thơ của ông thường hướng đến lý tưởng Cách mạng với những niềm tin yêu tuyệt đối vào Đảng và Bác Hồ. Điển hình trong số các tác phẩm của ông như tập thơ Từ ấy (1937 – 1946), Ra trận (1962 – 1971), … Trong đó, tác phẩm Khi con tu hú được Tố Hữu sáng tác năm 1939 khi đang bị giam cầm trong nhà lao Thừa Phủ. Bài thơ là khung cảnh thiên nhiên vào hè thật rực rỡ hòa cùng với khát khao tự do đến cháy bỏng, cực độ của người tù Cách mạng trẻ tuổi.
Bài thơ được sáng tác khi Tố Hữu đang trong ngục tù, không thấy được tự do, không có chút ánh sáng. Thế nhưng, bừng lên trong lòng ông vẫn là tình yêu cuộc sống tha thiết và khát vọng cháy bỏng được thoát khỏi nơi chốn địa ngục này. Với nhan đề "Khi con tu hú", Tố Hữu muốn nhấn mạnh rằng tiếng chim ấy là thứ đã khiến ông thức tỉnh, đánh thức trong ông một tình yêu với cuộc sống, một khát vọng tự do mãnh liệt.
Chẳng vậy mà mở đầu bài thơ, Tố Hữu đã vẽ lên cho chúng ta thấy được một bức tranh thiên nhiên vào hè thật tươi đẹp, đầy sống động và thấy được những âm thanh sôi động ngày hè mà đặc biệt là tiếng chim tu hú đang cất lên từng hồi để "gọi bầy":
"Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không …"
Giờ đây, giữa chốn lao tù, người thanh niên Cách mạng đang lắng tai nghe tiếng những con chim tu hú đang cất lên những âm thanh gọi nhau, gọi mùa hè đến. Tiếng gọi ấy như đánh thức trong tâm hồn người thanh niên niềm khao khát tha thiết đang sum họp với đồng đội, bạn bè. Và nó cũng đánh thức luôn nỗi cô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo khi ông đang muốn đem tất cả nhiệt huyết cả thanh xuân mà cống hiến cho Cách mạng.
Tiếng chim tu hú đã đánh thức Tố Hữu, và ông bất chợt thấy mọi âm thanh của sự sống ngày hè đang ngay gần bên khung cửa. Ông thấy được tiếng ve đang ngân nga trong những vườn cây, thấy tiếng sáo diều đang vi vu trên bầu trời cao xanh ngoài khung cửa sổ nhà lao. Tất cả những âm thanh ấy sao mà sống động, tươi vui đến thế! Nó là một bản nhạc được hòa tấu bằng nhiều thứ âm thanh sặc sỡ, sống động mà rộn ràng, đầy sức sống, thúc giục con người ta tận hưởng.
Và không chỉ vậy, tiếng chim tu hú kia còn đánh thức hết thảy mọi giác quan của Tố Hữu. Ông như đang nhìn thấy những màu sắc thật tươi tắn, rực rỡ của ngày hè. Nào là những cánh đồng lúa chín vàng óng đang đến ngày thu hoạch, những hạt bắp vàng đang óng ánh giữa sân "nắng đào" hồng tươi, nào là bầu trời xanh thẳm, biêng biếc xanh… Tất cả những màu sắc ấy thật tươi đẹp, thật giàu sức sống, vẫy gọi người tù Cách mạng đến mà tận hưởng. Và màu xanh của bầu trời kia hay chăng còn là màu xanh của tự do nhà thơ đang mơ ước, là bầu trời của hòa bình tươi đẹp trong con mắt của người Cách mạng?
Tố Hữu nghe tiếng chim tu hú mà như thấy được những khung cảnh thật đậm sắc thái đặc trưng của ngày hè. Đó là hình ảnh cánh đồng lúa chiêm bát ngát đang chín rực, là vườn trái cây trĩu nặng quả ngọt đang "ngọt dần". Tất thảy mọi sự vật đang dần tiến đến độ "chín", độ hoàn mĩ của mình. Phải tinh tế lắm thì Tố Hữu mới nhận ra được sự vận động êm đềm của thời gian đang chuyển dần sang hạ từ tốn đến như thế! Phải, đâu phải ai cũng đủ nhạy bén mà cảm nhận được hương thơm của vườn cây trái từ trong lao ngục, đâu phải ai cũng nghe được âm thanh của mùa hè náo nức đến thế qua bức tường đá cầm tù lạnh lẽo? Phải là người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, gắn bó máu thịt với quê hương mới có thể có những cảm nhận thực sự đặc sắc đến như vậy được chứ?
Tưởng chừng như những người tù, không gian bốn bề của bao quanh bởi bức tường đá lạnh lẽo, nhưng với Tố Hữu thì không. Bởi ông cảm nhận được cả một không gian đang rộng mở ngay trước mặt, rộng rãi, khoáng đạt biết mấy, mênh mông, rộng lớn biết chừng nào:
" Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không …"
Hình ảnh "đôi con diều sáo" như một nét chấm phá nhỏ nhoi giữa bầu "trời xanh" đang rộng mở. Thế nhưng, có lẽ Tố Hữu cũng chỉ mong được làm cánh diều sáo nhỏ nhoi ấy để được tự do, thỏa thuê tung bay giữa bầu trời xanh, giữa những bè bạn, đồng chí thân yêu của mình?
Một bức tranh ngày hè thật quá đỗi sống động, với đầy đủ âm thanh, màu sắc, với không gian và hình ảnh thật rực rỡ. Với phép liệt kê được sử dụng hết sức nhuần nhuyễn, Tố Hữu đã vẽ lên bức tranh ngày hè thanh bình, đẹp tươi và giàu sức sống chỉ bằng trí tưởng tượng của mình. Chắc hẳn Tố Hữu phải yêu quê hương mình tha thiết lắm mới có thể tinh tế mà hình dung ra và nắm bắt được hết âm sắc của ngày hè dung dị qua từng ấy câu thơ.
Tố Hữu là một trong những người giác ngộ Cách mạng sớm nhất. Ông hiểu, tin yêu con đường Cách mạng của Bác Hồ. Ông hiểu làm Cách mạng là phải gắn với tù đày, như ông đã nói trong một bài thơ của mình rằng:
"Đời cách mạng từ đây tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày".
Ông hiểu là thế nên cũng như muôn vàn người đồng đội khác, khi phải đứng trong nhà lao, giữa bốn bức tường cô quạnh, ông chỉ muốn thật mau được thoát ra khỏi, để lại được sum vầy cùng đồng đội, sát cánh chiến đấu với kẻ thù. Bốn câu thơ cuối trong bài thơ Khi con tu hú là tâm trạng, là cảm xúc của Tố Hữu, là khát khao muốn được tự do của người tù Cách mạng:
"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu"
Đọc đến đây, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta mới nhận ra rằng bức tranh phong cảnh bên trên, tất cả chỉ được "vẽ" lên qua tâm tưởng của nhà thơ. Mùa hè bên ngoài đang tươi đẹp là thế, mà người tù Cách mạng lại phải ngồi đây, biệt giam trong nhà lao Thừa Phủ. Và thế là niềm khao khát tự do bừng dậy thật mạnh mẽ trong lòng Tố Hữu. Nhịp sống ấy cứ dâng trào, sôi sục trong lòng khiến ông không thể kìm nén mà thốt lên:
"Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi"
Khao khát tự do đã len lỏi vào từng tế bào trong cơ thể người thanh niên trẻ, biến nỗi khao khát ấy trở thành hành động cụ thể muốn "đạp tan phòng" giam để được đến với tự do. Nhà thơ muốn được chạy ra ngoài kia, đến với tự do, đến với thế giới rộng mở, to lớn, thoát khỏi cái nhà lao chật hẹp, tăm tối này.
Sự bức bối ấy khó chịu đến mức chỉ vài câu thơ, Tố Hữu đã liên tục sử dụng một loạt những động từ mạnh để diễn tả sự ngột ngạt, bực mình đến cực điểm của mình trong chốn lao tù của mình: nào là "đạp tan", nào là "chết uất". Toàn những từ ngữ thật mạnh bạo, có lẽ khao khát tự do đã quá cháy bỏng, cái không khí ngột ngạt, bức bối đã khiến cho nhà thơ trở nên thật nhạy cảm, chỉ muốn đạp tan hết mọi thứ để được bước đến với tự do ngoài kia. Kèm với những động từ mạnh là những từ ngữ cảm thán được sử dụng liên tục: "ôi, thôi, sao, làm sao" khiến cho chúng ta càng cảm nhận rõ hơn sự ngột ngạt tới bức bách của người thanh niên Cách mạng.
Cũng ở trong cùng những dòng thơ này, Tố Hữu cũng sử dụng cách ngắt nhịp thơ nhanh 6/2 hoặc 3/3 mà chúng ta ít thấy để diễn tả cho chúng ta thấy sự ngột ngạt tới cao điểm mà nhà thơ đang phải chịu đựng đồng thời bộc lộ khát khao tự do đến cháy bỏng của mình, muốn được thoát khỏi lao tù, trở về với thế giới tự do ngoài kia.
Như chúng ta có thể nhận thấy, bài thơ được mở đầu bằng tiếng chim tu hú và kết lại cũng bằng tiếng chim tu hú kêu. Đây là âm thanh gợi lên tất cả, xuyên suốt toàn bài thơ, khắc khoải mà da diết. Ở đầu bài thơ, tiếng chim là tiếng kêu của tự do, của đất trời bao la ngày hè đầy sức sống đang vẫy gọi thì ở câu kết bài, tiếng chim ấy lại là tiếng kêu khiến cho người tù cảm thấy đau khổ, khắc khoải và bực bội nhất. Bởi ông đang bị giam cầm trong thế giới mất tự do và tiếng chim kia lại tha thiết mời gọi đến với tự do, càng khiến ông thêm dằn vặt, bực bội hơn bao giờ hết.
Có thể nói, tiếng chim tu hú chính là tiếng gọi của tự do, cho sự sống. Nó khiến cho người tù Cách mạng phải bồn chồn, xao xuyến, mong mỏi được thoát ra khỏi không gian ngột ngạt chốn lao tù để hòa mình vào thế giới của tự do. Sâu trong từng câu chữ hòa với tiếng chim tu hú là khát vọng được tự do trong một đất nước hòa bình độc lập.
Về mặt nghệ thuật trong bài thơ, Tố Hữu đang thành công khi sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc – thể thơ lục bát, vừa uyển chuyển lại dễ hiểu dễ nghe. Nhịp thơ được ông biến chuyển linh hoạt, được ngắt nhịp đều đặn xúc cảm và tâm trạng của nhà thơ. Ngôn ngữ ông sử dụng cũng giản dị, dễ hiểu, hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi, lời thơ da diết thể hiện niềm khát vọng cháy bỏng của nhà thơ.
Bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã dựng lên bức tranh ngày hè thật đẹp đẽ với đầy đủ âm thanh và sắc màu. Tất cả đều toát lên một sức sống cực kì mãnh liệt. Tình cảm trong bài thơ được nhà thơ thể hiện sâu sắc và da diết qua thể thơ lục bát mộc mạc. Bài thơ là tình yêu cuộc sống tha thiết, sâu nặng của nhà thơ và niềm khao khát tự do tới cháy bỏng của người tù Cách mạng trong hoàn cảnh tù đày.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 09:27 24/04/2023
Đoạn trích Vợ nhặt của Kim Lân đã thành đề tài bàn luận không chỉ của tác giả mà còn của nhiều độc giả đón đọc. Thành công của tác phẩm không dừng lại ở việc khắc họa hiện thực xã hội đói nghèo và thiếu thốn, người chết như ngả rạ, khắp nơi bao trùm bởi không khí tang thương mà còn là vẽ ra những mảnh đời, những câu chuyện bình dị nhưng vô cùng ý nghĩa. Bên cạnh Tràng - nhân vật chính của câu chuyện, còn có chị vợ và bà cụ Tứ, mẹ của Tràng. Tuy xuất hiện ít hơn nhưng nhân vật bà cụ Tứ để lại nhiều ấn tượng và sự thương cảm trong lòng người đọc.
Qua miêu tả của Kim Lân, bà cụ Tứ là một bà cụ tuổi đã già, những cử chỉ của bà chứng tỏ bà là người bắt đầu bước sang tuổi già yếu, mắt kèm nhèm, vì hoàn cảnh đói nghèo thiếu thốn cho nên bà có khuôn mặt bủng beo, u ám, bước đi chậm rãi. Những hành động của bà không còn nhanh nhẹn mà chậm rãi và từ từ, như sợ mình không thể làm được mọi thứ một cách nhanh gọn như thời còn trẻ. Nhưng dáng vẻ đó của bà cụ Tứ thay đổi khi bà lần đầu nhìn thấy Tràng - đứa con trai tội nghiệp, vì đói nghèo, khổ ải mà không lấy được vợ, không gây dựng được hạnh phúc gia đình. Như lời bà nói thì đến cái thân mình còn lo chưa nổi nữa là lo đèo bòng. Nhưng số kiếp, duyên số đã vồ lấy nhau thì có muốn tránh cũng không được, mắt bà cụ hấp háy như thể xác minh lại điều mình thấy đã đúng chưa hay chỉ là do tuổi già. Người phụ nữ ngồi trên giường, tay vin vào áo, vừa e thẹn rồi lại cất tiếng chào u.
Bà cụ Tứ dù sống trong kiếp sống nghèo khổ nhưng không thể phủ nhận rằng, ở bà vẫn tồn tại một nỗi niềm và tình yêu thương vô bờ bến mà bà đã dành cho con của mình. Từ bây giờ đứa con dâu kia cũng trở thành con một nhà. Hoàn cảnh thiếu thốn nhưng không có gì là không làm được. Từ hai bàn tay có thể làm được nhiều điều hơn nữa, không chỉ dừng lại ở việc lôi nhau về rồi cuối cùng chịu số phận kiếp nạn đói nghèo mãi được. Bà rơi nước mắt vừa mừng vừa tủi cho bọn chúng - đứa con trai và con dâu tội nghiệp của bà. Khóc vì cuối cùng con trai bà cũng lấy được vợ, nhưng khóc vì tương lai đói nghèo, cái đói còn đeo đuổi những con người này tới bao giờ. Bà rồi mai này già yếu bà không lo, nhưng còn những đứa con, không biết cái đói sẽ khiến bà đi tới đâu về đâu.
Dù sống trong hoàn cảnh nào nhưng bà cụ Tứ vẫn lạc quan niềm tin yêu vào cuộc đời, và tương lai của hai đứa con của bà. Niềm vui nho nhỏ của một người mẹ già yếu chính là thấy những đứa con của mình no ấm hạnh phúc. Bạn muốn thay đổi diện mạo cuộc sống, muốn mọi thứ trở nên sạch sẽ và tinh tươm, không còn tù mù như trước nữa. Dặn dò những đứa con của mình, bà cũng mong muốn chúng bắt đầu cuộc sống và bước sang một trang mới. Cuộc sống của dâu mới không được danh chính ngôn thuận cưới về, không có mâm bàn mời bà con lối xóm, nhưng chắc chắn một điều rằng, từ nay trở đi bà đã có thêm một đứa con. Sáng sớm tinh mơ mọi thứ được dọn dẹp sạch sẽ, bụi quang rậm cũng được phát bỏ. Một chi tiết được tác giả gây dựng khiến độc giả vừa ngậm ngùi thương xót chính là hình ảnh mà bà cụ Tứ lễ mễ bưng một nồi nghi ngút. Bữa cơm đón dâu mới theo lời bà cụ nói là “chè“ nhưng thực chất chỉ là cám. Miếng cám đến mặn chát và đắng ngắt khiến cho cô con dâu nghẹn ứ, mặt xám lại, không ai nói với ai một lời. Nhưng thông qua lời nói của bà, cách bà gọi đây là chè khiến cho cuộc sống nghèo khổ bớt nhạt nhẽo.
Như vậy, bà cụ Tứ tuy xuất hiện ít trong đoạn trích nhưng những gì bà để lại khiến bản thân chúng ta phải suy ngẫm. Đó là một người phụ nữ giàu lòng thương yêu và đức hi sinh. Cuộc đời bà như thế nào cũng được nhưng còn con của bà, chúng phải thay đổi và cuộc sống của chúng sẽ tốt lên. Bà cụ Tứ còn gieo vào những người con của mình một niềm tin yêu, lạc quan vào cuộc sống và về tương lai sau này.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 09:27 24/04/2023
Dàn ý Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt
a) Mở bài
- Giới thiệu nhà văn Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt
- Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ: đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam.
b) Thân bài
* Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ
+ Là một bà mẹ nghèo khổ, góa bụa, già nua - ốm yếu, là dân ngụ cư (dân ở nơi khác đến, thường bị dân bản sứ coi rẻ).
+ Bà sống với anh con trai - chỉ là một anh phụ xe nghèo.
+ Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
* Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
- Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng” -> tâm lý bất an, phân vân hồi hộp; "đứng sững lại" - bà giật mình bởi vì sự xuất hiện của người đàn bà lạ mà con trai mang về; "hấp háy cặp mắt" - thói quen của người có tuổi - đây là hình ảnh gợi tả sự ngạc nhiên và tò mò muốn nhìn rõ hơn.
-> Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên, tâm lí bị động trước sự việc.
- Sau khi hiểu ra:
+ Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt
+ Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.
+ Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai
- Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất, chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về.
- Bà cụ Tứ dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:
+ Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây... đỡ mỏi chân”
+ Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
+ Bảo ban các con làm ăn
=> Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.
c) Kết bài
- Cảm nhận riêng về hình tượng bà cụ Tứ.
Câu trả lời của bạn: 09:26 24/04/2023
Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam, các sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Tác phẩm xoay quanh số cuộc sống của nhân vật Mị, đặc biệt là diễn tả diễn biến nội tâm của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động lớn diễn biến tâm lí và hành động của người con gái vùng núi này.
Vì sao sau bao nhiêu năm sống lầm lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa, chấp nhận cuộc sống chẳng bằng con trâu, con ngựa, sức sống của Mị lại chợt hồi sinh trong đêm tình mùa xuân? Phải chăng không khí mùa xuân đến bất ngờ cùng hội xuân, sắc áo váy rực rỡ và những cuộc chơi đã ảnh hưởng đến Mị? Hay chẳng phải sắc màu cũng chẳng phải hương xuân mà chính là tiếng sáo thân quen. Tiếng sáo gọi bạn tình vốn đã quen thuộc, đi vào nếp sống của người dân Hồng Ngài, họ dùng tiếng sáo để thể hiện tình yêu, để nói lòng mình. Nghe tiếng sáo, Mị lại bồi hồi nhớ lại quá khứ của mình, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, hình ảnh tiếng sáo quan trọng đến mức được lặp lại hơn mười lần trong tác phẩm. Tiếng sáo tuy giản dị, mộc mạc nhưng lại khiến lòng người thiết tha bồi hồi, bởi nó tượng trưng cho tình yêu trai gái. Tiếng sáo khơi dậy trong người con gái vốn tưởng đã chết về mặt tinh thần sống lại quá khứ tươi đẹp, cái ngày mà cô thỏa sức vùng vẫy trong tự do và tình yêu. Chính tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến sức sống tiềm tàng trong Mị. Bên cạnh tiếng sáo, men rượu cũng là một yếu tố khiến Mị có sự thay đổi. Mị uống ực từng bát, uống như một tên sâu rượu, Mị uống để quên đi hiện tại khốn khổ, nhục nhã và cũng để không nhớ đến tương lai mờ mịt, không có gì để hi vọng. Hành động uống rượu ấy đã nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái nhưng cũng tiếp thêm sức mạnh để người con gái ấy bừng tỉnh sức sống.
Từ những chất xúc tác từ bên ngoài ấy cùng bản chất mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo, Mị bỗng cảm thấy tha thiết, bồi hồi. Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ – một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hi vọng có thể sống lại một lần nữa. Ngày ấy, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, tài năng cùng với sắc đẹp của nàng khiến bao chàng trai Hồng Ngài mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhận ra mình vẫn còn trẻ. Thật kì lạ khi người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình vẫn còn trẻ. Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình vẫn còn trẻ, mình vẫn còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi. Bao năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không đi chơi xuân, mặc dù những người đàn bà có chồng khác vẫn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ có một ôi cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa, cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc. Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh cảm xúc. Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn ấy không ai khác chính là A Sử - con trai thống lí và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, không cho Mị cử động. Nhưng dù bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lí trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi theo tiếng sáo tình yêu ấy, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Đau xót thay.
Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những cảm xúc hồ tưởng về quá khứ đến hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan trọng. Lúc trước, Mị đã coi mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí mà đã là con trâu, con ngựa thì không có suy nghĩ, chúng chỉ biết ăn và làm việc mà thôi nhưng lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, đến cả con trâu, con ngựa mình cũng không bằng. Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.
Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí cùng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, thông dụng, Tô Hoài dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi dập, tưởng chỉ còn cái xác không hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, chỉ tìm cơ hội để hồi sinh, để bùng cháy.
Câu trả lời của bạn: 09:25 24/04/2023
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tâm trạng của Mị trước đêm xuân.
II. Thân bài:
- Phân tích tâm trạng Mị trong đêm mùa xuân.
+ Trước đêm mùa xuân, do bị đày đọa, áp chế, Mị trở thành một người phụ nữ “vô hồn”, mất hết ý niệm về thời gian lẫn không gian. Kiếp sống của Mị lúc đó chẳng khác nào kiếp sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra. Nhưng có thể nói sức sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt.
-> Sức sống trong Mị có thể bị dập tắt vĩnh viễn, nhưng cũng có thể sẽ trỗi dậy khi có điều kiện.
+ Do sự tác động của bối cảnh bên ngoài đối với Mị trong đêm mùa xuân. Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao
--> Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết lơ lửng kia đã đánh thức con người Mị ngày xưa. Tiếng sáo vô tình hay cố ý chạm vào nỗi nhớ “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hồi”. “Mị ngồi nhẩm lại bài hát của người đang thổi”…
- Mùa xuân đó đầy sắc màu, rộn rã âm thanh. Điều ấy xa lạ với không gian trong căn phòng bé nhỏ của Mị, nhưng gần gũi với thế giới mà Mị đã từng sống rất hạnh phúc. Chúng gợi cho Mị nhớ lại thời xa xưa. Ngày xưa, Tết Mị uống rượu. Bây giờ, Mị cũng uống rượu. Rồi Mị say.
- Rượu – chất men đánh thức phần đời đã mất của Mị. “Khi uống rượu say, Mị lại được sống về những ngày trước. Ngày trước Mị vui sướng biết bao. Tai Mị vẳng nghe tiếng sáo vọng lại đầu làng. Đấy là tiếng sáo của tình duyên, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Mị không còn là cô con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa. Mị đang uống rượu bên bếp và thổi sáo rồi Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Ra thế, Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ.”
- Sự đối lập giữa hoàn cảnh đêm xuân, giữa thế giới được đánh thức với cuộc sống thực tại: Khi say, Mị nhớ và sống lại với ngày xưa, nhưng thực ra, Mị vẫn đang ở nhà thống lý Pá Tra. Mị vẫn đang sống kiếp đọa đày với A Sử. Sự đối lập giữa một bên là hạnh phúc tuổi trẻ với một bên là kiếp sống trâu ngựa đã khiến Mị suy nghĩ đến việc kết liễu đời mình như ngày mới về làm dâu nhà thống lý. Mị lại ước gì có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Càng nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Ôi chao, tiếng sáo ấy, tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Mị đang muốn quên đi, Mị không muốn nhớ lại cái ngày trước mà không được. Tiếng sáo ấy lửng lơ, tiếng sáo ấy làm Mọi thiết tha bổi hổi. Mị muốn đi chơi. Mị muốn thoát ra ngoài cái ô cửa ô mờ đục, trăng trắng này!
- Nhưng Mị lại thực hiện một sự giải thoát bằng cách khác. Đó là bỏ nhà đi chơi như những người trẻ trung đang dập dìu ngoài làng. Mị đã ý định giải thoát một cách lặng lẽ mà mãnh liệt: Mị đến góc nhà, tay lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng…Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách… Mị rút thêm cái áo. Mị làm tất cả, thật bình thản và quyết liệt như ngày xưa, khi trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.
- Ý định giải thoát của Mị không thành: Trông thấy Mị, A Sử lấy làm lạ. Nó chỉ biết rằng Mị muốn đi chơi. Thằng chồng ác hơn con hổ ấy không biết trước mặt mình đã là một cô Mị khác, cô Mị của ngày xưa mà hắn đã từng lừa lọc để đánh cắp đem về. Hắn thẳng tay vùi dập tàn nhẫn sự trở về đó: A Sử bước lại, nắm lấy Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống mặt, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa…
III. Kết bài:
- Thành công của nhà văn Tô Hoài là đã khắc hoạ một nhân vật sống chủ yếu bằng tâm trạng, với tâm trạng. Cả đêm mùa xuân, Mị hành động được rất ít, nhưng người đọc vẫn thực sự hấp dẫn với một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy. Không gian, thời gian, giọng kể của tác phẩm theo một tiết tấu của chính tâm trạng ấy. Hẳn Tô Hoài đã đặt cả tấm lòng của mình vào tâm trạng của Mị, để người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi tha thiết, khi nghẹn ngào xót xa.
Câu trả lời của bạn: 09:24 24/04/2023
Giới thiệu tác giả Trần Đăng Khoa và bài thơ tình người lính biển
Thơ viết về đề tài chiến tranh, có những bài thật xúc động neo giữ bền chặt trong lòng bao thế hệ. Đó là những cuộc chia tay của người đi bảo vệ Tổ quốc và người yêu ở lại. Theo dòng cảm xúc đó, Trần Đăng Khoa có bài “Thơ tình người lính biển”. Đây cũng là cuộc chia tay đầy lưu luyến, đầy lãng mạng và cũng rất đỗi tự hào của người lính hải quân đi làm nhiệm vụ giữ biên hải thiêng liêng của Tổ quốc. Tình cảm này đại diện cho tình yêu của hậu phương tạo thêm sức mạnh cho người lính biển ra khơi đến với biển đảo xa xôi để bảo vệ lãnh hải của Tổ quốc.
Thân bài:
1. Hoàn cảnh sáng tác “Thơ tình của người lính biển” ra đời đã được nhiều thế hệ đón nhận. Và khi nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc đã nhanh chóng đi vào lòng người và trở thành bài ca đi cùng năm tháng.
Bài thơ thật bình dị, thật gần gũi. Cái bình dị, gần gũi được gói gọn trong tình yêu Tổ quốc thiêng liêng và tình yêu lứa đôi thủy chung của người lính biển. Câu thơ: “Biển một bên và em một bên…” được lặp lại như một điệp khúc trong năm khổ thơ của bài thơ. Nhịp điệu bài thơ khoan thai, dìu dặt tựa như những con sóng vỗ chao mạng thuyền. Nhưng được người lính lắng lại. Rồi tĩnh tâm để cân bằng hai đối trọng.
2 khổ đầu:
Bài thơ mở đầu với cảnh chia tay của đôi uyên ương. Đấy là cảnh chia tay đầy lưu luyến và cũng không biết ngày trở về:
(trích 2 khổ thơ đầu)
Bài thơ được khởi nguyên bằng ba từ thật đơn giản: “Anh ra khơi”. Đằng sau ba từ ấy lại đong đầy tâm trạng của người lính biển. Mà mở đầu là hình ảnh cặp uyên ương chia tay nhau trên bến cảng. Một hình ảnh rất thực, khi đọc lên ai cũng hình dung ra được. Người lính biển rảo bước cùng người yêu của mình và ở đó anh nhận ra những vầng mây treo ngang trời như những cánh buồm trắng. Đấy là những hình ảnh thân quen của người lính biển. Thật lạc quan khi người lính nhìn mây treo ngang trời như cánh buồm phiêu du, như thôi thúc anh tạm xa người yêu về cùng với biển đảo thân yêu. Giờ, trong khoảnh khắc, cái hạnh phúc thật dung dị, thật hiếm hoi, biển và em lại ngân lên. Đấy là Tổ quốc thiêng liêng, là tình em chung thủy đan cài…Dấu chấm lửng đặt sau câu thơ: “Biển một bên và em một bên…” tạo cho người đọc sự đồng cảm, sẻ chia của sự cách xa trong tình yêu đôi lứa và những tâm sự thiết tha chưa kịp nói hết. Tất cả vì nghĩa lớn, vì Tổ quốc thân yêu.
Sử dụng hình ảnh so sánh đối lập: Trong khoảnh khắc hạnh phúc lứa đôi, họ sánh bước bên nhau bên chân sóng, nơi bến cảng xôn xao, nhà thơ đã khắc họa tính cách của biển và em: “Biển ồn ào, em lại dịu êm”.
Hai hình ảnh ngỡ như tương phản nhau. Không, trong cảnh huống này đấy là sự tương thuộc. Bởi cả hai đã lắng sâu trong trái tim người lính biển.
Bên chân sóng rì rào, người con gái buông câu nói diết da tình ái, rồi nén nỗi chia xa đầy luyến lưu của người ở lại. Rồi lặng lẽ mỉm cười, như lời động viên tha thiết của mình khi ngoài kia biển đang thôi thúc tinh thần và trách nhiệm làm trai.
Nhân hoá: Để rồi người lính đi giữa cái chung và riêng trước phút chia tay mà hóa thân thành con tàu lắng sóng từ hai phía.
=> Anh là người đứng giữa, có thể cảm nhận được biển cũng có thể cảm nhận được em
2 khổ tiếp
Trong khoảnh khắc ấy, người lính biển chợt nhận ra: “Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn/ Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc/Thăm thẳm nước trời nhưng anh không cô độc/Biển một bên và em một bên…” Lặp từ: Hai từ “ngày mai” được viết liền nhau hai lần như sự khẳng định chắc chắn nơi anh sẽ đến để thực hiện nghĩa vụ cao quý của mình bằng tâm thế thật lạc quan. Và người đọc có thể hình dung, có thể định lượng được bằng cảm quan rằng, nơi anh đóng quân thật xa xôi, thật cách trở.
Và không gian ấy được trải dài vô tận với thăm thẳm nước trời, với chùm sao xa lắc. Ở đó có thể là đảo chìm, đảo nổi, có thể anh đang cùng đồng đội trên tàu tuần tra…Trước biển trời bao la, con người được xem như nhỏ bé, đơn độc là điều dễ hiểu. Nhưng “anh không cô độc” bởi trong anh có tình yêu Tổ quốc, có đồng đội, có hậu phương, có hình bóng em nơi quê nhà…Xưa nay khi nói về biển, người ta thường nghĩ tới những hiểm họa. Nào kẻ thù đang rình rập xâm lấn, nào thiên tai, nhân tai, nào những bất trắc khôn lường… Vì lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc, đã có không ít chàng trai Việt ra đi không trở về, thi thể họ vùi chôn nơi đáy biển nghìn thu.
Và biết bao ngôi mộ gió khắc khoải ru hồn: “ Đất nước gian nan chưa bao giờ bình yên/Bão táp chưa ngưng trong những vành tang trắng”.
Nhưng không vì thế làm cho người thanh niên Việt Nam chùn bước. Theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, họ sẵn sàng đi đến nơi đầu sóng ngọn gió để hoàn thành nghĩa vụ của mình một cách hiên ngang: “Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng”. Tác giả thật tài hoa khi dùng dấu chấm để ngắt nhịp câu thơ, tạo thành ba cụm câu, đã đem lại hiệu quả biểu cảm thật cao, tạo cho người đọc sự liên tưởng đến những vất vả, gian lao của người lính biển, nhưng cũng thật tự hào.
Hình ảnh “Anh đứng gác.”đã hóa thân thành cột mốc kiên định chủ quyền lãnh hải, là biểu tượng của lòng yêu nước và sự kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.Từ thuở cha ông bằng thuyền nan dong buồm đi cắm mốc chủ quyền quốc gia trên biển. Các thế hệ của dân tộc ta luôn nối tiếp nhau vượt qua bao gian nan thử thách để giữ vững chủ quyền của dân tộc. Các anh luôn trung thành, luôn thủy chung với tình yêu đất nước, với tình yêu lứa đôi dẫu bao giả định, bao bất trắc có thể xảy ra.
Khổ cuối:
Đó là tình yêu vĩnh hằng thiêng liêng của người lính biển: “Vòm trời kia có thể sẽ không em/Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ/Cho dù thế thì anh vẫn nhớ/Biển một bên và em một bên…”“Thơ tình người lính biển” là bài thơ với những hình ảnh ấn tượng. Phải chăng, giai điệu ấy đã thôi thúc người lính biển bao giờ cũng đặt tình yêu Tổ quốc trên hết. Câu thơ thật lãng mạng cũng thật trí tuệ. Biển, đấy là Tổ quốc. Em, đấy là tình yêu lứa đôi. Đại diện cho cái rộng lớn và cái nhỏ bé. Cái chung và cái riêng cùng vun đắp cho khát vọng niềm tin của người lính biển. Trần Đăng Khoa thay dấu phẩy bằng liên từ “và” vừa tách bạch vừa liên thông giữa hai nhân vật biển và em đại diện cho hai tình yêu Tổ quốc và riêng tư luôn tương quan chia sẻ tạo ra sức mạnh và niềm tin của người lính trẻ. Tình cảm đó đã tạo thành câu thơ điệp lại năm lần trong năm khổ thơ dệt nên điểm nhấn cho bài thơ thật hay.
Kết bài:
Vừa sâu lắng, vừa mãnh liệt cùng với âm điệu lúc trầm lúc bổng, lúc nhanh lúc chậm. Tất cả cùng hòa điệu trong âm hưởng “Biển một bên và em một bên…” tạo ra sự lan tỏa sâu rộng về tình yêu Tổ quốc quyện hòa cùng tình yêu lứa đôi lay thức trách nhiệm công dân trong lòng bao thế hệ.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 08:42 19/04/2023
Trời ơi, do em quên cho ăn mà mấy con cá cảnh đã chết trong bể.
Câu trả lời của bạn: 08:40 19/04/2023
Trò chơi dân gian ngày nay đang được quan tâm đúng mức. Các trò chơi này thường được chơi ở những nơi sinh hoạt tập thể, trong trường học. Một trong những trò chơi đơn giản mà không cần chuẩn bị. Đó là trò Mèo đuổi chuột. Đây là trò chơi vui và bổ ích. Ta cùng tìm hiểu trò chơi này.
Chưa ai khẳng định chắc chắn trò chơi Mèo đuổi chuột có từ bao giờ. Trò chơi này đã có ở Việt Nam từ rất lâu đời. Đây là trò chơi đã được phổ biến rộng rãi ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Điểm khác nhau giữa ba miền là bài hát đồng dao dùng để hát khi chơi trò chơi này.Cách chơi
Số người tham gia chơi: khoảng 10 người trở lên. oẳn tù tì để chọn người làm mèo và người làm chuột. Người làm mèo và người làm chuột đứng riêng ra. Những người còn lại nắm tay nhau đứng thành vòng tròn. Sau đó, người làm mèo và người làm chuột ngồi quay lưng vào nhau ở giữa vòng tròn. Khi nghe hiệu lệnh xuất phát thì người làm chuột phải chạy thật nhanh và mèo thì cố sức đuổi theo chuột. Khi chuột chạy tới vòng tròn thì hai người đứng chỗ vòng tròn đó phải giơ cao tay cho chuột chạy ra ngoài. Nếu mèo chạy đến vòng tròn, hai người đứng chỗ đó liền đứng sát lại nhau để mèo không chui ra được. Mèo phải tìm cửa khác để ra. Nếu khi đuổi, mèo “vồ” được vào người chuột thì coi như mèo dã thắng, chuột thua. Ván chơi kết thúc. Trò chơi lại tiếp tục bằng đôi khác đóng mèo và chuột. Người chơi vừa chơi vừa hát bài đồng dao sau:
“Mời bạn ra đây
Tay nắm chặt tay
Đứng thành vòng rộng
Chuột chui lỗ hổng
Để chạy cho mau
Mèo đuổi phía sau
Chạy đâu cho thoát.
Thế là chú chuột
Lại hóa thành mèo
Co cẳng đuổi theo
Bắt mèo hóa chuột.
Trò chơi rất vui, tạo bầu không khí hào hứng, sôi nổi. Luyện tập sự nhanh nhẹn, khéo léo và rèn luyện sức dẻo dai.
Câu trả lời của bạn: 08:40 19/04/2023
Dàn ý trò chơi dân gian
a) Mở bài
Giới thiệu về trò chơi dân gian bạn sẽ thuyết minh: kéo co, ô ăn quan, nhảy dây, trốn tìm,...
b) Thân bài
* Giải thích khái niệm:
Trò chơi dân gian là những hoạt động vui chơi giải trí do quần chúng nhân dân sáng tạo ra và được lưu truyền tự nhiên qua nhiều thế hệ, phản ánh đời sống tinh thần, văn hóa của dân tộc.
Trò chơi dân gian là hình thức sinh hoạt cộng đồng được nhân dân tiếp cận và gắn bó nhiều nhất, diễn ra mọi lúc, mọi nơi, không hạn định về mặt thời gian, không gian.
* Thuyết minh về một trò chơi cụ thể
- Tìm hiểu về nguồn gốc của trò chơi:
Trò chơi ra đời khi nào, lấy cảm hứng từ đâu?
Ngày nay trò chơi có còn phổ biến không hay được lưu giữ tại bảo tàng?
- Nêu những đặc điểm đặc trưng của trò chơi:
Số lượng người chơi
Độ tuổi thường chơi
Thời gian chuẩn bị
Thời gian chơi
Các kỹ năng cần thiết
- Các dịp tổ chức trò chơi (lễ hội, thi đấu...)
- Đối tượng tham gia trò chơi: độ tuổi, giới tính, ...
- Giới thiệu về cách thức chơi và luật chơi
- Ý nghĩa của trò chơi dân gian:
Giải trí, tạo niềm vui cho con người
Nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
c) Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa của trò chơi dân gian trong đời sống tinh thần của con người.
Câu trả lời của bạn: 08:39 19/04/2023
Tố Hữu là nhà thơ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, con đường cách mạng cũng là con đường thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của Đảng. Bài thơ "Từ ấy" vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bài thơ đước viết theo thể thơ thất ngôn ca ngợi lí tưởng cách mạng và mang tên tình yêu giai cấp của người chiến sĩ trẻ.
Khổ thơ mở đầu cất lên như một lời hát say mê, nồng nàn, vần thơ tràn ngập ánh sáng:
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim".
"Từ ấy”, là từ thuở ấy (9-1938), nhà thơ vui sướng, hân hoan chào đón "Mặt trời chân lí chói qua tim". Giữa những năm tháng nô lệ, lầm than, tủi nhục, người chiến sĩ trẻ cảm thấy được hồi sinh "bừng nắng hạ". "Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo nói về ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lenin. Lí tưởng cách mạng, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa soi sáng nhận thức, mở mang tâm hồn trí tuệ, làm cho cuộc đời đầy sắc màu ý nghĩa. Lòng "tôi" và con đường cách mạng "bừng nắng hạ" chói chang, ấm áp. Trái tim "tôi" có "Mặt trời chân lí chói qua...". Ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi vào tâm hồn. Dưới ánh sáng lí tưởng, tâm hồn “ đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn xuân rực rỡ trong muôn sắc màu "hoa lá", ngào ngạt "đậm hương” và "rộn tiếng chim" hót ca. Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã chọn lọc một số từ có giá trị gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ca ngợi lí tưởng và tình yêu lí tưởng. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà thơ xứ Huế có nhiều vần thơ độc đáo, đậm đà:
"Khi ta đã say mùi hương chân lí
Đời đắng cay không một chút ngọt bùi
Đời đau buồn không một tiếng cười vui
Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng”
("Như những con tàu" - 1938)
Có thể nói, Tố Hữu là nhà thơ viết hay nhất về lí tưởng cách mạng bằng bút pháp lãng mạn tuyệt đẹp. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin thật vô cùng kì diệu. "Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” ( Aragông - Pháp). Yêu nước mà bắt gặp chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã giác ngộ tinh yêu giai cấp. Khổ thơ thứ hai nói lên sự gắn bó với mọi người", "với trăm nơi "với bao hồn khổ" với giai cấp” và nhân dân lao động nghèo khổ đang bị đế quốc, phong kiến bóc lột, áp bức dã man. Các từ ngữ: "buộc", "trang trải", "gần gũi" - biểu lộ sự gắn bó thiết tha với thế giới cần lao, với "khối đời" - khối công nông liên minh:
"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi vời bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".
Người chiến sĩ trẻ, người thanh niên cộng sản trên con đường cách mạng quyết tâm chiến đấu và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".
Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hòa trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: "là con của vạn nhà", "là em của vạn kiếp phôi pha", "là anh của vạn đầu em nhỏ... Các từ: "là", các số từ "vạn" được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha chân thành, thấm thía xúc động:
"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ".
Nhà thơ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới "mặt trời chân lí", dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của Cách mạng.
Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ca ngợi lí tưởng cách mạng và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách chân thành và say mê. "Từ ấy" là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và Cách mạng. Đọc "Từ ấy" ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: "Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ của mình".
Câu trả lời của bạn: 08:39 19/04/2023
Dàn ý Phân tích bài thơ Từ ấy
I. MỞ BÀI
1. Hoàn cảnh ra đời
Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, là cái mốc đánh dấu thời điểm (1937) và được kết nạp Đảng năm 1938 - Tố Hữu giác ngộ và gặp ánh sáng lí tưởng cộng sản. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu. Tự nhận định về Từ ấy, anh viết: "Từ ấy: là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh".
2. Nội dung
Tâm nguyện cao đẹp của người thanh niên trẻ trung nhiệt tình cách mạng: Niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.
Quảng cáo
3. Tứ thơ
Tứ thơ "Từ ấy" bắt nguồn từ cảm hứng của thời điểm Tô Hữu đón nhận lí tưởng cách mạng.
II. Thân bài
1. Khổ 1: Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng
- Hai câu đầu viết theo bút pháp tự sự: "Từ ấy trong tôi..." Từ ấy, là lúc nhà thơ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời "chân lí" cách mạng soi sáng đường đời. Hình ảnh ẩn dụ "nắng hạ" cho nguồn nhiệt lượng cách mạng làm bùng sáng tâm hồn nhà thơ, "mặt trời chân lí" là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ca ngợi ánh sáng điệu kì của cách mạng. Đó là thứ ánh sáng của tư tường cộng sản - ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.
- Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào cảm hứng lãng mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: "vườn hoa lá", "đậm hương" "rộn tiếng chim".
- Đón nhận ánh sáng cách mạng là Tố Hữu đã đón nhận một con đường thênh thang tươi sáng cho cuộc đời, cho hồn thơ: một cuộc đời có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một hồn thơ bát ngát tình yêu cách mạng, yêu đồng bào.
Quảng cáo
2. Khổ 2: Biểu hiện những nhận thức về lẽ sông
- Hai dòng đầu : nhà thơ khẳng định quan niệm mới mẽ về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa "cái tôi" cá nhân với "cái ta" chung của mọi người.
- Động từ "buộc" là một ngoa dụ để thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt đá của Tố Hữu để vượt qua "ranh giới" của "cái tôi" để chan hòa mọi người "Tôi buộc lòng tôi với mọi người".
- Từ đó, tâm hồn nhà thơ vươn đến "trăm nơi" (hoán dụ) và "trang trải" sẻ chia bằng những đồng cảm sâu sắc, chân thành và tự nguyện đến với những con người cụ thể.
- Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương con người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng. Nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ "Để hồn tôi với bao hồn khổ" và từ đó như một biện chứng mang cái tất yếu là sức mạnh tổng hợp "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời". Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm - nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: "khi chúng ta cầm tay mọi người - Đất nước vẹn tròn, to lớn".
Tóm lại, Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
Quảng cáo
3. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ
- Trước khi gặp cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Khi ánh sáng cách mạng như "Mặt trời chân lí chói qua tim", đã giúp nhà thơ vượt qua những tầm thường ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn đến một tình yêu "vẹn tròn to lớn".
- Nhà thơ tự nhận mình "là con của vạn nhà" trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất; là em của "vạn kiếp phôi pha" gần gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ, bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương; là anh của "vạn đầu em nhỏ" "cù bất cù bơ". Từ những cảm nhận ấy đã giúp nhà thơ say mê hoạt động cách mạng với những thiết tha cao đẹp công hiến đời mình góp phần giải phóng đất nước, giải phóng những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược.
III. Kết bài
- Hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách mạng.
- Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình - chính luận, hướng người đọc đến chân trời tươi sáng.
- Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính.
- Giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn.
- Hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ giàu tính dân tộc.
Câu trả lời của bạn: 08:54 18/04/2023
I. Dàn ý Cảm nhận về tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng (Chuẩn)
1. Mở bài:
Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Làng:
– Kim Lân là cây bút chuyên viết về đề tài nông thôn và người nông dân
– Làng là một tác phẩm xuất sắc của ông, với nhân vật chính là ông Hai – một người nông dân nghèo nhưng có tình yêu làng, yêu quê hương sâu sắc.
2. Thân bài:
a. Khái quát chung:
– Truyện ngắn Làng viết vào đầu những năm tháng kháng chiến chống Pháp.
– Truyện kể về ông Hai, một lão nông nghèo phải rời làng di tản cư.
– Ông Hai có một lòng yêu quê hương sâu sắc nhưng lại bị đặt trong tình huống thử thách ngặt nghèo: làng ông theo giặc.
– Ông đau đớn, tủi nhục muôn phần cho tới khi tin cải chính về làng ông tới.
– Ông Hai là đại diện cho những người nông dân nghèo nhưng luôn hướng về quê hương, đất nước và cách mạng.
b. Cảm nhận về tình yêu làng của ông Hai:
– Tình cảm của ông Hai dành cho làng khi ông ở nơi tản cư:
+ Nghe theo lời của Uỷ ban kháng chiến, ông Hai rời làng lên khu tản cư, thế nhưng thâm tâm ông vẫn luôn hướng về làng.
+ Khi cuốc đất, trồng trọt, ông luôn nghĩ về làng, nghĩ tới những ngày “cùng làm việc với anh em”.
+ Những lúc ấy, ông thấy mình như “trẻ ra”, ông nhớ làng, nhớ mọi người, “Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá”.
+ Yêu làng, ông luôn chăm chú nghe ngóng tin tức về kháng chiến, tin tức về làng của ông.
– Tâm trạng đau đớn, buồn khổ của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:
+ Ông Hai nghe tin “làng Chợ Dầu theo Việt gian” từ những người đàn bà mới lên tản cư.
+ Nghe tin đó, ông Hai giật mình, lắp bắp hỏi: “Nó… Nó vào làng Chợ Dầu hở bác?”, khi nghe lời khẳng định chắc nịch của người đàn bà: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” khiến ông lão “lặng đi”, “tưởng như đến không thở được”
+ Sau đó, ông Hai trở về nhà trong niềm đau đớn, tủi nhục, “cúi gằm mặt mà đi”.
+ Về tới nhà, ông “nằm vật ra giường”, nghĩ tới con, nước mắt ông “giàn ra”, chua xót “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?”.
+ Đau đớn, ông rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”: Đây là tiếng thét căm hờn của một con người với tình yêu quê hương cháy bỏng.
+ Niềm hy vọng, nỗi đau giằng xé trong tâm hồn ông: một mặt ông không tin làng ông theo giặc, mặt khác ông nghĩ rằng ” không có lửa làm sao có khói?”.
+ Suốt những ngày tháng sau đó, ông Hai quanh quẩn trong nhà trong nỗi sợ hãi. Bất cứ đám đông, tiếng cười nói nào cũng khiến ông “chột dạ”, sợ hãi.
+ Đến khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi, ông Hai đứng trước sự lựa chọn, trở về làng hay chọn kháng chiến. Và câu trả lời của ông Hai chắc nịch là chọn kháng chiến “về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”.
+ Ở lâu trong nhà, ông chỉ đành tâm sự cùng đứa con trai. Ông nói để thoả nỗi mong nhớ về làng cũng là “để ngỏ lòng mình”
+ Ông Hai là điển hình cho người nông dân trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn luôn hướng về quê hương, cách mạng một lòng.
– Niềm vui sướng của ông Hai khi nghe tin cải chính:
+ Tin cải chính đến bất ngờ, hồi sinh ông Hai.
+ Sau bao ngày ủ rũ, ông Hai lại trở lại “tươi vui, rạng rỡ”, ông mua quà cho con, chạy sang nhà bác Thứ mà kể: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn”.
+ Niềm vui sướng, hân hoan trào dâng, một sự hả hê không lời nào tả xiết
+ Câu chuyện khép lại trong sự vui sướng và niềm hân hoan vô bờ của ông Hai.
c. Đánh giá nội dung, nghệ thuật:
– Nội dung:
+ Câu chuyện về ông Hai với tình yêu làng sâu đậm
+ Ông là đại diện cho những người nông dân nghèo của Việt Nam luôn một lòng hướng về quê hương, Tổ quốc.
– Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật xuất sắc
+ Tạo nên tình huống độc đáo, kịch tính
+ Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật hết sức thành công.
3. Kết bài:
Cảm nhận chung về nhân vật
II. Bài văn mẫu Cảm nhận về tình yêu làng của ông Hai trong truyện Làng (Chuẩn)
Kim Lân là nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn và những người nông dân nghèo trong xã hội Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng để lại cho thế hệ sau trong đó phải kể tới truyện ngắn Làng. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là ông Hai – một người nông dân nghèo nhưng lại có một tình yêu làng vô cùng sâu sắc.
Truyện ngắn Làng được viết vào đầu những năm tháng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Truyện kể về ông Hai cùng tình yêu làng, sự gắn bó tha thiết của ông với ngôi làng nhỏ của mình. Thế nhưng, khi kháng chiến bùng nổ, tình yêu làng của ông bị đặt trong một tình huống ngặt nghèo: làng Chợ Dầu của ông theo giặc. Tin tức đó đã khiến cho ông Hai – một con người yêu làng, luôn tự hào về cái làng của mình phải đau đớn, tủi nhục muôn phần. Đến khi tin cải chính đến, ông Hai mới được trở về con người thực của mình, vui sướng, hớn hở khoe với mọi người việc ngôi nhà của mình bị giặc đốt. “Làng” của Kim Lân đã tái hiện chân thực hình ảnh những người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp: yêu làng, yêu nước, giàu tinh thần cách mạng. Ông Hai – nhân vật chính trong tác phẩm cũng là đại diện cho những người nông dân nghèo nhưng luôn một lòng yêu quê hương, một lòng hướng tới kháng chiến, hướng tới Cụ Hồ.
Xuyên suốt trong truyện ngắn Làng, ta cảm nhận được một cách vô cùng rõ ràng tình yêu làng của ông Hai, từ những ngày còn ở làng, cho tới khi đến nơi tản cư rồi nghe tin làng theo giặc. Bất cứ thời điểm nào, khoảnh khắc nào, ta cũng đều thấy ngời sáng trong những trang truyện là tình yêu tha thiết của ông Hai đối với ngôi làng Chợ Dầu của mình. Khi còn ở làng, ông Hai cùng anh em hăng hái tham gia công việc kháng chiến. Nghe theo lời của Uỷ ban kháng chiến, ông Hai rời làng lên khu tản cư. Thế nhưng sâu thẳm trong ông là nỗi nhớ, là ước mong, khao khát được trở về ngôi làng của minh. Đến nơi tản cư, tình yêu làng của ông Hai được bộc lộ rõ nét hơn, lúc nào ông cũng nhớ và nghe ngóng tin tức về ngôi làng yêu quý của mình. Chẳng vậy mà khi cuốc đất trồng trọt, làm ruộng, ông vẫn luôn nhớ về những ngày được “cùng làm việc với anh em”, “cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày”. Ông nhớ về những ngày tháng còn được ở làng, còn được cùng làm việc với anh em làng xóm mà ông Hai “thấy mình như trẻ ra”. Ông muốn được “về làng”, “muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá, …”, nỗi khát khao trở về bùng cháy trong tâm hồn ông lão. Đó là bởi ông yêu làng, tình yêu làng của ông thấm đượm trong từng công việc mà ông làm ở nơi tản cư này. Tất cả đều gợi lên trong ông nỗi nhớ mãnh liệt về ngôi làng nhỏ bé của mình, về làng Chợ Dầu mà ông yêu quý “Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!”.
Yêu làng, muốn được biết thông tin về làng, vậy nên lúc nào ông cũng chăm chỉ đến phòng thông tin để nghe ngóng tin tức kháng chiến dù rằng ông không biết chữ và chỉ đến để “nghe lỏm” người ta đọc báo. Ông Hai, một lão nông nghèo, phải rời xa quê hương của mình vì nhiệm vụ kháng chiến, nhưng lúc nào trong lòng ông vẫn luôn đau đáu nỗi nhớ về ngôi làng của mình, lúc nào cũng mong muốn được trở về quê hương cùng anh em, xóm làng chiến đấu chống lại kẻ thủ.
Tình yêu làng của ông Hai càng được thể hiện rõ khi mà ông được đặt trong một thử thách ngặt nghèo. Đó là tin tức làng ông theo giặc được những người đàn bà từ dưới Gia Lâm thông báo. Những người đàn bà mới lên khu tản cư ngồi nghỉ chân, nói chuyện với nhau dưới bóng cây và loáng thoáng nói về làng Chợ Dầu , ông chỉ nghe thấy loáng thoáng hai tiếng Chợ Dầu, nhưng cũng đã khiến cho ông Hai giật mình “lắp bắp hỏi lại: Nó …Nó vào làng Chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Thế nhưng đáp lại lời ông Hai chỉ là lời chỏng lỏn, đỏng đảnh của người đàn bà tản cư: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Câu nói của người đàn bà như một tiếng sét ập thẳng vào tai ông Hai. Cái tin đó đã khiến cho ông choáng váng đến độ “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rần rần. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở nổi”. Ông Hai hỏi lại trong niềm hy vọng mong manh rằng cái tin ông nghe chỉ là một tin đồn: “Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…”. Vậy nhưng đáp lại lời ông Hai chỉ là lời khẳng định chắc chắn của người đàn bà rằng: “Việt gian từ thằng chủ tịch đi cơ ông ạ”. Có thể nói, tin tức mà người đàn bà mang tới cho ông Hai là một sự chấn động, đánh thẳng vào tình yêu làng trong tâm hồn ông. Cũng kể từ lúc đó, ông Hai như biến thành một con người khác, mang trong mình một sự tủi nhục, đau đớn của một kẻ tội đồ với dân tộc.
Sau khi nghe được cái tin dữ, ông Hai trở về nhà trong nỗi nhục nhã, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Kim Lân đã vô cùng xuất sắc khi miêu tả những giằng xé trong tâm hồn của lão nông già ấy. Đó là nỗi đau, là niềm tủi hờn khi tình yêu làng thiêng liêng của ông bị vấy bẩn. Ông Hai “nằm vật ra giường”, nhìn lũ con nhỏ đang chơi, ông “tủi thân” bật khóc. Nước mắt “giàn ra” trong khuôn mặt già nua khắc khổ của ông. Đối với những người nông dân nghèo, giọt nước mắt chỉ xuất hiện khi nỗi đau đó đã lên tới tột đỉnh và với ông Hai, giọt nước mắt kia không chỉ là nỗi đau mà còn là sự tủi hổ khi nghĩ về ngôi làng mình hằng yêu quý, là niềm thương xót cho những đứa con thơ dại của mình. Những đứa con thơ của ông, còn chưa hiểu gì, chưa biết gì đã trở thành ” trẻ con làng Việt gian” “bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Đó còn là giọt nước mắt khi tình yêu làng, niềm tự hào về làng bao lâu nay của ông bất chợt bị “vấy bẩn” với cái tin tức rằng làng ông theo Việt gian. Đau xót, tủi hờn, ông Hai “rít lên” trong đau đớn: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Đó là tiếng thét của một con người yêu làng tha thiết nhưng lại bị phản bội một cách đau đớn, khốn khổ. Trong thâm tâm ông, niềm tin và nỗi đau hòa vào nhau, giằng xé lẫn nhau. Ông không tin rằng ngôi làng mà ông yêu quý lại có thể trở thành một ngôi làng “Việt gian bán nước” như người đàn bà nói. Thế nhưng “ai người ta hơi đâu bịa tác ra những chuyện ấy làm gì”. Để tới cuối cùng, niềm hy vọng nhỏ nhoi đó của ông Hai sụp đổ, vỡ vụn. trong đau đớn “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”. Đó là tiếng nói buồn bã mà đau xót của một trái tim luôn hướng về quê hương, từ một tâm hồn không lúc nào ngơi tự hào về làng quê của mình.
Suốt những ngày tháng sau đó, ông Hai trở nên gắt gỏng với vợ mình và không dám ra khỏi nhà. Ông lão sợ hãi, không dám để ai nhắc tới những tin tức tồi tệ kia, nỗi đau đớn, dằn vặt bủa vây lấy tâm hồn ông. Ông Hai “trằn trọc”, “rũ ra trên giường” và “thở dài”, ông lo lắng bị mụ chủ nhà đuổi khỏi nơi ở, rồi sẽ không ai dám chứa chấp gia đình ông, những người dân của ngôi làng Việt gian bán nước. Cũng từ ngày nghe cái tin dữ ấy, ông Hai biến thành một con người khác. Nếu như trước đây, ông thường hay ra khỏi nhà, đi đến phong thông tin thì giờ đây, ông chỉ dám “quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng”. Ông không dám bước ra khỏi nhà, không dám cả sang nhà bác Thứ đế mà tâm sự. Và như một lẽ đương nhiên, ông sợ hãi trước những lời người ta nói chuyện, những tiếng “Việt gian, cam – nhông, tiếng Tây”. Và đến cả cái tin dữ, ông cũng né tránh gọi là “chuyện ấy”. Nỗi đau, sự nhục nhã ê chề đã khiến cho ông Hai trở nên ủ rũ, mệt mỏi và chán chường, chẳng dám đối mặt với câu chuyện đau xót về cái làng của mình. Với ông Hai – một lão nông cần cù, yêu làng hơn tất cả thì cái tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc quả là một cú sốc, một nỗi uất ức, tủi nhục đến khôn cùng. Ngôi làng mà ông luôn yêu quý, tự hào nay trở thành Việt gian bị mọi người căm ghét. Khi mụ chủ nhà biết việc và đánh tiếng đuổi gia đình ông đi, ông Hai buộc phải đưa ra một lựa chọn khó khăn, chọn làng hay nước? Với ông Hai – một con người với tình yêu làng tha thiết, tưởng chừng đã có lúc ông nghĩ rằng “Hay là quay về làng?”, thế nhưng suy nghĩ đó lập tức bị ông bác bỏ. Bởi tình yêu làng có lớn lao bao nhiêu nhưng khi làng đã theo giặc “thì phải thù”, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”.
Quanh quẩn trong ngôi nhà bé tí trọ đã khiến ông Hai bị dồn nén. Nỗi nhớ làng, mong nhớ về quê hương, ông gửi vào đứa con trai bé bỏng của mình. Ông hỏi nó về quê hương, để khắc sâu vào tâm trí nó rằng quê hương nó là làng Chợ Dầu, cùng là để truyền cho nó tình yêu làng sâu đậm của mình. Trong nỗi đau khổ đang giằng xé lấy tâm can ông, trò chuyện với con cũng là cách để ông Hai có thể vơi bớt những nỗi niềm trong tâm tư của mình, cũng là “để ngỏ lòng minh”, “để mình lại minh oan cho mình”. Ông Hai là điển hình cho những người dân quê Việt Nam hồn hậu, chất phác, dù trong hoàn cảnh đau đớn vẫn không nguôi một tình yêu quê hương sâu nặng!
Thế nhưng, may thay, cái tin cải chỉnh về làng ông lại đến bất ngờ, làm hồi sinh ông lão già. Cái tin ấy đã rũ sạch những đau khổ, tủi cực của ông Hai và ông lại trở lại “tươi vui, rạng rỡ”. Ông Hai mua quà cho con, rồi lật đật chạy sang nhà bác Thứ mà khoe trong niềm hạnh phúc vô bờ: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! Đốt nhẵn”. Có lẽ chẳng người nông dân nào lại vui sướng đến vậy khi căn nhà mình gắng công gây dựng lại bị thiêu rụi sạch sẽ. Thế nhưng, với ông Hai, điều đó lại mang đến một niềm sung sướng, một sự hả hê mà không một lời nào tả xiết. Bởi nó là minh chứng cho sự trong sạch của làng Chợ Dầu của ông, và cũng là minh chứng cho tấm lòng trong sạch của ông đối với Cách mạng, với cụ Hồ. Câu chuyện kết lại trong âm thanh náo nức, hân hoan, vỡ oà của ông Hai – một lão nông với tình yêu làng đậm đà, sâu nặng.
Kim Lân đã dựng lên hình ảnh của một ông Hai với tình yêu làng sâu đậm vô cùng thành công. Ông là đại diện cho những người dân quê nghèo nhưng mang trong mình tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc, dù cho có trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu ấy vẫn luôn dạt dào, mạnh mẽ, lớn mạnh trong tâm hồn của họ.
Về nghệ thuật, tác giả đã xây dựng nhân vật ông Hai vô cùng độc đáo. Kim Lân đã đặt nhân vật vào một tình huống thử thách để thấy được tình cảm sâu nặng của ông đối với làng quê của mình. Bằng việc đặc tả cử chỉ, nét mặt, giọng nói của nhân vật, nhà văn đã khiến nhân vật ông Hai hiện lên thật sống động cùng tình yêu làng vô cùng sâu sắc. Và thêm vào đó, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng là một phần tạo nên thành công cho truyện ngắn Làng!
Tình yêu làng của ông Hai đã được nhà văn Kim Lân thể hiện rất xuất sắc. Đó là tình yêu của những người dân dành cho quê hương của minh. Tình yêu ấy thống nhất cùng tình yêu đất nước và tinh thần kháng chiến đã làm nên chiến thắng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.
Câu trả lời của bạn: 08:49 18/04/2023
Gợi ý:
+ Lưạ chọn vấn đề để tìm hiểu: môi trường đất; nguồn nước, danh lam thắng cảnh; chất lượng không khí; đa dạng sinh học;...
+ Hình thức tìm hiểu: quan sát; phỏng vấn; ghi lại hình ảnh; thông tin; tìm kiếm trong tài liệu;...
+ Phân tích thông tin thu được.
Câu trả lời của bạn: 10:29 17/04/2023
Dàn ý Phân tích hình tượng những chiếc xe không kính trong Bài thơ về tiểu độ xe không kính
I. Mở bài
+ Giới thiệu khái quát về "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
+ Giới thiệu sơ lược về hình tượng chiếc xe không kính trong bài thơ
II. Thân bài
1. Hình tượng chiếc xe không kính là hình ảnh thực:
+ Gợi những tiểu đoàn xe hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn.
+ Nhằm thực hiện nhiệm vụ chi viện cho miền Nam đánh Mỹ.
2. Hình tượng chiếc xe không kính gợi sự tàn khốc của hiện thực chiến tranh
- Hình tượng những chiếc xe không kính được miêu tả một cách trần trụi và chân thực
+ "Bom giật, bom rung" phá vỡ những chiếc kính.
+ Điệp từ "không có" cùng biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh những thiếu thốn cùng sự khốc liệt của cuộc chiến.
- Hình tượng những chiếc xe gắn với sự tàn phá của khốc liệt của chiến tranh.
3. Hình tượng chiếc xe không kính làm nổi bật vẻ đẹp của những người lính lái xe
+ Vẻ đẹp của tư thế hiên ngang, ung dung: "Ung dung buồng lái ta ngồi"
+ Vẻ đẹp của tinh thần dũng cảm, bất chấp hiểm nguy và coi thường những thiếu thốn, gian khổ.
+ Vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội
+ Vẻ đẹp của tinh thần yêu nước và lí tưởng cách mạng.
III. Kết bài
Khái quát ý nghĩa của hình ảnh những chiếc xe không kính.
Phân tích hình tượng những chiếc xe không kính trong Bài thơ về tiểu độ xe không kính
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật. Thơ ông không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên, sống động, gân guốc, độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó .
Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm: những chiếc xe và những người chiến sĩ lái xe. Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên, mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
Cách lý giải đơn giản, ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc. Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung” giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Trên những chiếc xe không kính, dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm. Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ. Trong tư thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên. Nhịp thơ cân xứng, ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận. Cái vất vả, gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Xe không kính, gió lùa mạnh vào ca bin, người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến, dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ. Và hơn thế nữa, nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời”
Điệp từ “ừ thì”, “chưa cần" kết hợp với hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”, giọng “cười ha ha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái. Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh. Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết nỗi gian nan của người cầm lái. Đường Trường Sơn gập ghềnh, mưa Trường Sơn như trút nước, mùa khô xe chạy bụi mù trời. Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi, mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi. Trên những chiếc xe không kính, tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Lạ lùng thay, như một khám phá bất chợt của nhà thơ, sự hiểm nguy của những chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau, bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản dị:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình
Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng lại ấm áp tình cảm. Những người lính không chỉ là đồng chí, đồng đội mà họ còn là những người cùng trong một gia đình. Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng. Chỉ có điều càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra: “không đèn”,“không mui”, chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”. Như vậy cả “không có” và “có ” đều là tổn thất, đều là hư hại. Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của chiến tranh, hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải. Vượt dãy Trường Sơn, đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù, mang trên mình đầy thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường. Kỳ lạ thay:
“Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim"
“Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống trẻ trung, sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến. Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra. Ta chợt nhận ra người chiến sĩ lái xe là một phần không thể thiếu, là con mắt, là bộ não, là linh hồn của xe. Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống ,thành một khối thống nhất với người chiến sĩ. Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương. Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái.
Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ, rất lính. Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm. Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ, đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả.