
Yi Eun
Đồng đoàn
190
38
Câu trả lời của bạn: 21:51 27/11/2024
Giải thích các bước giải
a. Sóng âm không bị môi trường hấp thụ nên công suất nguồn âm không đổi.
Đúng. Công suất của nguồn âm là một đại lượng không đổi, bất kể khoảng cách từ nguồn đến điểm quan sát. Điều này đúng trong trường hợp sóng âm không bị hấp thụ.
b. Cường độ âm tại vị trí càng gần nguồn âm thì có giá trị càng lớn.
Đúng. Cường độ âm giảm theo khoảng cách từ nguồn phát. Khi di chuyển gần hơn đến nguồn âm, cường độ âm sẽ tăng lên.
c. Công suất nguồn âm là (P = 706.5 , \text{W}).
Để tính công suất nguồn âm, ta sử dụng công thức: [ P = I \cdot S ] với (S) là diện tích mặt cầu tại khoảng cách 15m: [ S = 4\pi r^2 = 4\pi (15)^2 = 4 \cdot 3.14 \cdot 225 = 2826 , \text{m}^2 ] Tính công suất: [ P = 0.25 \cdot 2826 \approx 706.5 , \text{W} ]
Đúng. Công suất nguồn âm là khoảng 706.5 W.
d. Khi di chuyển từ A đến B cách nhau 10m theo hướng lại gần nguồn âm thì cường độ âm giảm 2 W/m².
Để kiểm tra phát biểu này, ta cần tính cường độ âm tại vị trí B (cách A 10m, tức là cách nguồn 5m):Cường độ âm tại B sẽ được tính bằng công thức: [ I_B = \frac{P}{4\pi (5)^2} ]
Tính diện tích mặt cầu tại B: [ S_B = 4\pi (5)^2 = 4 \cdot 3.14 \cdot 25 = 314 , \text{m}^2 ]
Tính cường độ âm tại B: [ I_B = \frac{706.5}{314} \approx 2.25 , \text{W/m}^2 ]
Cường độ âm tại A là 0.25 W/m², cường độ âm tại B là 2.25 W/m². Khi di chuyển từ A đến B, cường độ âm tăng chứ không giảm.
Sai. Cường độ âm không giảm mà tăng lên.
Câu trả lời của bạn: 21:50 27/11/2024
Gọi q(x) là thương khi chia f(x) cho g(x)
Vì f(x)⋮g(x) nên:
f(x)=g(x).q(x)
⇔f(x)=(2x2+x-3).q(x)
⇔f(x)=(x-1)(2x+3).q(x)
+) Với x=1, ta có:
f(1)=(1-1)(2.1+3).q(1)
⇔f(1)=0
⇔a+b-6+8=0
⇔a+b=-2
⇔278a+278b=-274 (1)
+) Với x=-32, ta có:
f(-32)=(-32-1)[2.(-32)+3].q(-32)
⇔f(-32)=0
⇔-278a+94b+9+8=0
⇔278a-94b=17 (2)
Từ (1) và (2) ⇒ 458b=-954
⇔b=-389
Thay b=-389 vào (1), ta được:
278a+278.(-389)=-274
⇔a=209
Vậy (a;b)=(209;-389)
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:24 27/11/2024
Ứng với công thức phân tử C4H8O thì chất có thể là anđehit hoặc xeton
A. Anđehit C4H8O
Anđehit C4H8O có 2 đồng phân anđehit, cụ thể
CH3 - CH2 – CH2 – CHO: Butanal
CH3 – CH(CH3)CHO: 2 – metylpropanal
B. Xeton C4H8O
C4H8O có 1 đồng phân xeton, cụ thể:
CH3 – CH2 – CO – CH3: Butan – 2 - on
Vậy ứng với công thức phân tử C4H8O thì chất có 3 đồng phân, có thể là anđehit hoặc xeton.
Câu trả lời của bạn: 21:24 27/11/2024
Quãng đường dốc: dài 50m, xe máy đi hết trong 2,5 giây.
Quãng đường nằm ngang: tốc độ xe máy là 5 km/h, đi hết trong 2 phút.
Câu a) Tính tốc độ trên đoạn đường dốc.
Câu b) Tính tốc độ trung bình cả hai quãng đường.
Giải:
Câu a) Tính tốc độ trên đoạn đường dốc
Để tính tốc độ trên đoạn đường dốc, ta dùng công thức tính tốc độ trung bình:
v=Stv = \frac{S}{t}Trong đó:
S=50 mS = 50 \, \text{m} (quãng đường dốc).
t=2,5 giaˆyt = 2,5 \, \text{giây} (thời gian đi hết quãng đường dốc).
Tuy nhiên, ta cần đổi đơn vị thời gian từ giây sang giờ để dễ dàng tính toán. Một cách dễ dàng hơn là tính tốc độ trong đơn vị m/s trước, sau đó chuyển đổi sang km/h nếu cần.
Tốc độ trên đoạn dốc là:
v=502,5=20 m/sv = \frac{50}{2,5} = 20 \, \text{m/s}Vậy, tốc độ trên đoạn đường dốc là 20 m/s.
Câu b) Tính tốc độ trung bình cả hai quãng đường
Tốc độ trung bình của cả hai quãng đường được tính theo công thức:
vtb=Tổng qua˜ng đườngTổng thời gianv_{\text{tb}} = \frac{\text{Tổng quãng đường}}{\text{Tổng thời gian}}Tổng quãng đường:
Quãng đường dốc: S1=50 mS_1 = 50 \, \text{m}.
Quãng đường nằm ngang: Vì tốc độ trên đoạn nằm ngang là 5 km/h5 \, \text{km/h} và thời gian là 2 phuˊt2 \, \text{phút}, ta cần tính quãng đường này:
Thời gian đi trên đoạn nằm ngang là 2 phuˊt=260 giờ=130 giờ2 \, \text{phút} = \frac{2}{60} \, \text{giờ} = \frac{1}{30} \, \text{giờ}.
Quãng đường trên đoạn nằm ngang là:
S2=v×t=5 km/h×130 giờ=530=16 km=166,67 m.S_2 = v \times t = 5 \, \text{km/h} \times \frac{1}{30} \, \text{giờ} = \frac{5}{30} = \frac{1}{6} \, \text{km} = 166,67 \, \text{m}.Vậy, Tổng quãng đường là:
Stb=50 m+166,67 m=216,67 m.S_{\text{tb}} = 50 \, \text{m} + 166,67 \, \text{m} = 216,67 \, \text{m}.Tổng thời gian:
Thời gian đi trên đoạn dốc là t1=2,5 giaˆyt_1 = 2,5 \, \text{giây}.
Thời gian đi trên đoạn nằm ngang là t2=2 phuˊt=120 giaˆyt_2 = 2 \, \text{phút} = 120 \, \text{giây}.
Vậy, Tổng thời gian là:
ttb=2,5 giaˆy+120 giaˆy=122,5 giaˆy.t_{\text{tb}} = 2,5 \, \text{giây} + 120 \, \text{giây} = 122,5 \, \text{giây}.Tốc độ trung bình của cả hai quãng đường là:
vtb=216,67122,5≈1,77 m/s.v_{\text{tb}} = \frac{216,67}{122,5} \approx 1,77 \, \text{m/s}.Nếu muốn đổi sang km/h:
vtb=1,77 m/s×36001000=6,37 km/h.v_{\text{tb}} = 1,77 \, \text{m/s} \times \frac{3600}{1000} = 6,37 \, \text{km/h}.Kết quả:
a) Tốc độ trên đoạn đường dốc là 20 m/s.
b) Tốc độ trung bình cả hai quãng đường là khoảng 6,37 km/h.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 21:23 27/11/2024
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 1
Trên đường trở về, chim thần phải mang quá nặng nên đâm bổ xuống biển. Nhưng chim chỉ bị ướt lông, một lúc sau bay lên. Còn người anh thì bị sóng cuốn trôi đến một hòn đảo hoang. Tỉnh dậy, người anh vô cùng hoang mang, lo sợ. Những ngày sau đó, anh ta phải lang thang khắp hòn đảo. Người anh kiếm được trái cây rừng có thể ăn, uống nước suối để duy trì sự sống. Mỗi ngày, anh ta đều ngồi ở ven bờ biển để chờ đợi. Đợi từ ngày này đến ngày khác, anh ta vẫn không thấy một chiếc thuyền nào đi ngang qua hòn đảo.
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 2
Đến hòn đảo, người anh nhặt cho đầy vàng bạc, kim cương. Trên đường về, do quá nặng lại gặp gió lớn nên chim thần đâm bổ xuống biển. Vì chỉ bị ướt lông nên chẳng mấy chim thần đã vùng lên bay đi. Còn người anh khi rơi xuống, bám được vào một khúc cây lớn. Anh ta ra sức gọi nhưng không thấy chim thần quay lại. Sau vài ngày lênh đênh trên biển, người anh trôi dạt vào một hòn đảo hoang. Tay nải đựng vàng bạc, châu báu đã mất hết. Anh ta lang thang trên đảo tìm đồ ăn, nước uống. Đợi hết ngày này đến ngày khác, không một chiếc thuyền nào đi qua hòn đảo, người anh cảm thấy hối hận vô cùng.
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 3
Người anh bị chim thần bỏ lại giữa biển. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, bao nhiêu của cải mất hết, người anh vô cùng tuyệt vọng. Thật may, anh ta đã được ngư dân trên thuyền đánh cá cứu sống. Họ cho anh ta ăn uống và còn đưa về nhà. Đến nơi, người anh vui mừng khôn xiết khi gặp lại vợ. Anh ta kể lại chuyện cho chị vợ nghe, còn khuyên vợ từ giờ hãy tu chí làm ăn. Người anh còn sang nhà để xin lỗi em trai. Kể từ đó, cuộc sống vợ chồng của người anh tốt đẹp hơn. Người anh và người em cũng trở nên thân thiết như xưa.
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 4
Người anh cố nhặt đầy vàng và kim cương. Trên đường về, vì quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Người anh bị sóng cuốn trôi dạt vào một hòn đảo hoang. Ở đây, anh ta phải tự tìm đồ ăn, nước uống. Cuộc sống hết sức khổ cực. Đến một hôm, có một chiếc thuyền ngang qua. Người anh tìm mọi cách để thông báo và được cứu đưa vào bờ. Khi biết được anh mình thay đổi, người em ra sức giúp đỡ anh. Hai anh em ngày càng hòa thuận, yêu thương nhau hơn.
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 5
Người anh bị ngọn sóng cuốn đi. Khi tỉnh dậy đã thấy mình nằm trên một hòn đảo hoang. Tay nải đựng vàng bạc, châu báu đã bị sóng đánh đi xa. Hắn kêu gào thảm thiết nhưng không có một tiếng trả lời. Người anh không còn cách nào, liền đánh liều đi về phía khu rừng. Lang thang nhiều ngày trong rừng, người anh phải ăn quả dại, uống nước suối để tiếp tục sống. Hắn cảm thấy hối hận vì lòng tham của mình, nhưng đã quá muộn.
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 6
Khi đến hòn đảo, người anh cố nhặt vàng và kim cương cho thật đầy tay nải. Trên đường về, vì quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Sau khi bị rơi xuống biển, người anh trôi dạt vào bờ, được một người đánh cá cứu. Anh ta nhận ra sai lầm của bản thân, trở về nhà khuyên vợ tu chí làm ăn. Khi biết được anh mình thay đổi, người em ra sức giúp đỡ anh. Hai anh em ngày càng hòa thuận, yêu thương nhau hơn.
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 7
Sau khi bị rơi xuống biển, người anh bị sóng đánh trôi dạt vào một hòn đảo hoang. Nơi đây không có một bóng người sinh sống. Người anh phải ăn trái cây rừng, uống nước suối để tiếp tục sống. Sau nhiều ngày, anh ta cảm thấy vô cùng hối hận vì hành động của mình. Tưởng như sắp hết hy vọng, thì một ngày nọ có chiếc thuyền đi ngang qua. Anh ta tìm cách báo hiệu cho người trong thuyền biết. Người anh được đưa về đất liền, gặp lại vợ và em trai liền cảm thấy vô cùng sung sướng. Những ngày tháng sau đó, người anh chăm chỉ làm ăn, sống hạnh phúc bên gia đình.
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 8
Chim thần đưa người anh đến đến hòn đảo, đáp xuống trước cửa hang. Xung quanh có rất nhiều vàng bạc, châu báu. Người anh nhìn thấy vô cùng sung sướng, ra sức nhặt bỏ vào túi. Thấy vẫn chưa đủ, hắn còn nhét cả túi áo, túi quần. Trên đường về, chim thần bay đến biển thì gặp gió lớn. Chim đâm bổ xuống biển, còn người anh bị sóng cuốn đi. Tất cả của cải cũng mất bị sóng đánh hết. Chim thần chỉ bị ướt lông, ướt cánh nên một lúc sau lại vùng lên trời bay đi. Một mình lênh đênh giữa biển nhiều ngày, người anh mệt mỏi và đói khát. Lúc này, người anh mới cảm thấy ân hận nhưng đã quá muộn.
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 9
Sáng hôm sau, chim thần đến đưa người anh ra hòn đảo. Nhìn thấy vàng bạc, kim cương, hắn cố nhặt cho đầy túi. Không chỉ vậy, người anh còn cho cả vào túi quần, túi áo. Trên đường về, vì quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Người anh bị sóng cuốn trôi, bao nhiêu của cải mất hết. Chim thần chỉ bị ướt lông, ướt cánh nên lại vùng lên trời bay đi. May có người dân đánh cá ngang qua mới cứu được. Sau cơn hoạn nạn, người anh trở về kể rõ sự tình cho vợ nghe. Hai vợ chồng người anh nhận ra lỗi lầm, tu chí làm ăn. Kể từ đó, anh em hòa thuận, cuộc sống hạnh phúc.
Tưởng tượng kết thúc khác cho truyện Cây khế - Mẫu 10
Người anh được chim thần đưa đến hòn đảo. Khi nhìn thấy vàng bạc, kim cương thì vô cùng sung sướng. Lòng tham nổi nên khiến người anh ra sức nhặt cho đầy túi. Đến khi ra về, chim thần bay qua biển gặp phải gió lớn. Chim thần bảo người anh bỏ bớt vàng bạc đi, nhưng hắn không nghe. Một lúc sau, chim không đủ sức, liền đâm bổ xuống biển. Người anh bị sóng cuốn trôi. Khi nhìn thấy chim thần bay lên trời thì ra sức gọi mà không được. Lênh đênh trên biển nhiều ngày, người anh vừa đói, vừa mệt. May có thuyền của ngư dân đi qua mới được cứu. Người anh thoát nạn trở về, liền thay đổi tính nết, quyết tu chí làm ăn và sống hòa thuận với em trai.
Câu trả lời của bạn: 21:20 27/11/2024
Để trả lời câu hỏi của bạn, tôi cần làm rõ về "thí nghiệm khảo sát của cát trong hình 3.14" mà bạn đề cập. Tuy nhiên, nếu bạn đang nói đến một thí nghiệm liên quan đến cát và áp suất, tôi có thể cung cấp một giải thích chung.
Trong các thí nghiệm khảo sát về cát, một ví dụ phổ biến là việc đo sự phân phối áp suất trong các lớp vật liệu khác nhau như cát, đặc biệt là khi cát bị nén dưới trọng lượng của các vật thể khác nhau.
Một thí nghiệm điển hình:
Giả sử thí nghiệm này khảo sát áp suất mà cát tạo ra khi bị nén dưới một trọng lượng. Khi một vật nặng được đặt lên một lớp cát, áp suất tại các điểm khác nhau sẽ thay đổi, với áp suất lớn hơn tại các điểm tiếp xúc trực tiếp với vật nặng. Điều này có thể được đo bằng cách sử dụng các thiết bị đo áp suất.
Điều chứng tỏ về áp suất:
Áp suất tăng khi diện tích tiếp xúc giảm: Nếu vật thể có diện tích tiếp xúc nhỏ, thì áp suất tại điểm tiếp xúc với cát sẽ lớn hơn. Điều này thể hiện mối quan hệ giữa áp suất và diện tích tiếp xúc, theo công thức: P=FAP = \frac{F}{A} Trong đó:PP là áp suất,
FF là lực (trọng lượng của vật thể),
AA là diện tích tiếp xúc.
Áp suất phân bố không đều trong cát: Trong thực tế, áp suất không được phân bố đều trong các lớp cát. Các hạt cát bị nén và tạo ra áp suất dọc theo các hướng khác nhau. Thí nghiệm có thể chỉ ra rằng áp suất trong các vật liệu rời rạc như cát có sự phân bố phức tạp, với các vùng có áp suất lớn hơn ở những điểm tiếp xúc trực tiếp.
Nếu bạn có thông tin cụ thể hơn về hình 3.14 trong tài liệu của bạn, tôi có thể đưa ra câu trả lời chính xác hơn về điều mà thí nghiệm này chứng tỏ.
Câu trả lời của bạn: 21:20 27/11/2024
a) Xét tam giác AOB và tam giác COD có:
OB = OD (gt)
ˆBOA=ˆCODBOA^=COD^ (hai góc đối đỉnh)
OA = OC (gt)
⇒ΔAOB=ΔCOD(c.g.c)⇒ΔAOB=ΔCOD(c.g.c)
Do đó ˆOAB=ˆOCDOAB^=OCD^ (hai góc tương ứng).
Mà hai góc này ở vị trí so le trong nên AB // CD.
b) Xét tam giác OAM và tam giác OCN có:
ˆMAO=ˆNCOMAO^=NCO^ (hai góc đối đỉnh)
OA=OC(gt)OA=OC(gt)
ˆMOA=ˆNOCMOA^=NOC^ (hai góc đối đỉnh)
⇒ΔOAM=ΔOCN(g.c.g).⇒ΔOAM=ΔOCN(g.c.g).
Suy ra AM = CN (hai cạnh tương ứng)
Do AB// CD (cmt) nên ˆMBO=ˆNDOMBO^=NDO^ (hai góc so le trong)
Xét tam giác OBM và tam giác ODN có:
ˆMBO=ˆNDOMBO^=NDO^ (cmt)
OB=OD(gt)OB=OD(gt)
ˆMOB=ˆNODMOB^=NOD^ (hai góc đối đỉnh)
⇒ΔOBM=ΔODN(g.c.g).⇒ΔOBM=ΔODN(g.c.g).
Suy ra BM = DN (hai cạnh tương ứng)
c) Xét tam giác IMA và tam giác FNC có:
ˆI=ˆF=900I^=F^=900
MA = NC (do ΔOAM=ΔOCNΔOAM=ΔOCN)
ˆA=ˆCA^=C^ (so le trong)
⇒ΔIMA=ΔFNC⇒ΔIMA=ΔFNC (cạnh huyền – góc nhọn).
Do đó MI = MF (hai cạnh tương ứng)
Câu trả lời của bạn: 21:19 27/11/2024
Tiền Giang là một tỉnh nằm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nổi tiếng với những di tích lịch sử và văn hóa đặc sắc. Trong số những di tích đó, Bến đò Phú Mỹ là một địa điểm có ý nghĩa quan trọng, gắn liền với lịch sử kháng chiến và truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam. Di tích này không chỉ là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn mà còn là chứng nhân lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Bến đò Phú Mỹ nằm ở xã Phú Mỹ, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang, cách thành phố Mỹ Tho khoảng 25 km về phía Đông Nam. Bến đò nằm bên dòng sông Tiền – một nhánh lớn của sông Mekong, nơi có mật độ giao thông đường thủy khá lớn. Địa điểm này từng là một bến đò quan trọng nối liền các vùng đất trong khu vực, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh.
Bến đò Phú Mỹ không chỉ nổi bật về vị trí địa lý mà còn là nơi gắn bó với những sự kiện lịch sử quan trọng. Vào những năm 1945 – 1946, khi phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra mạnh mẽ, bến đò Phú Mỹ trở thành một trong những điểm trung chuyển chiến lược của cách mạng. Từ đây, các chiến sĩ cách mạng đã vận chuyển vũ khí, tài liệu và giúp đỡ các hoạt động kháng chiến.
Bến đò Phú Mỹ là một trong những địa điểm chứng kiến nhiều hoạt động kháng chiến của nhân dân và chiến sĩ cách mạng trong những năm tháng chiến tranh. Khi chiến tranh bùng nổ, bến đò này trở thành tuyến đường huyết mạch cho việc vận chuyển lương thực, vũ khí và các chiến sĩ từ vùng này sang vùng khác. Di tích này là minh chứng rõ rệt cho tinh thần kiên cường và sự hy sinh của nhân dân miền Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập.
Bến đò Phú Mỹ cũng gắn liền với hình ảnh của những người dân địa phương đã tham gia vào các hoạt động kháng chiến, bất chấp khó khăn, gian khổ. Họ không chỉ là những người dân quê bình dị mà còn là những chiến sĩ dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng tự do, độc lập của dân tộc. Nhờ có những đóng góp âm thầm ấy mà cách mạng ở khu vực này đạt được những thắng lợi quan trọng.
Ngày nay, Bến đò Phú Mỹ đã trở thành một di tích lịch sử được bảo tồn và phát huy giá trị. Nơi đây thu hút không chỉ du khách trong nước mà còn cả khách quốc tế đến tham quan, tìm hiểu về lịch sử kháng chiến của dân tộc. Ngoài việc tham quan di tích, du khách còn có thể thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc sông nước hữu tình, hòa mình vào nhịp sống thanh bình của vùng quê sông nước.
Các hoạt động du lịch tại Bến đò Phú Mỹ không chỉ dừng lại ở tham quan di tích mà còn bao gồm các chương trình giáo dục lịch sử, nhằm giúp thế hệ trẻ hiểu thêm về quá trình đấu tranh của cha ông. Các buổi nói chuyện về lịch sử, các chương trình tưởng niệm, lễ hội mang đậm dấu ấn của truyền thống yêu nước được tổ chức tại đây nhằm khơi dậy lòng tự hào dân tộc và tình yêu quê hương đất nước.
Bến đò Phú Mỹ không chỉ là một địa điểm du lịch nổi bật của Tiền Giang mà còn là một di tích lịch sử có giá trị to lớn đối với nền văn hóa và lịch sử của dân tộc. Nơi đây ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là chứng nhân cho sự hy sinh, cống hiến của nhân dân miền Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập. Bến đò Phú Mỹ không chỉ là niềm tự hào của người dân Tiền Giang mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, sự kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử.
Câu hỏi:
Câu trả lời của bạn: 18:16 26/11/2024
Vì hai số đều có phần nguyên là 1 giống nhau nên ta đi so sánh phần thập phân của hai số là 0,0(10) và 0,(01).
Đặt x = 0,0(10) và y = 0,(01).
Ta thấy 1000x = 10,(10) = 10 + 0,(10) = 10 + 10x nên 990x = 10. Suy ra x = 10990=19910990=199
Tương tự, 100y = 1,(01) = 1 + y nên 99y = 1. Suy ra y = 199199.
Do đó, x = y = 199199.
Suy ra, a = b.
Câu trả lời của bạn: 17:33 26/11/2024
3chục = 30 quả bóng
Hoa còn lại số bóng là:
30 : 3 = 10 (quả)
Đáp số: 10 quả
Câu trả lời của bạn: 17:32 26/11/2024
Câu trả lời của bạn: 05:55 23/11/2024
Ta có :
23=2×73×7=1421−67=(−6)×37×3=−1821
Câu trả lời của bạn: 05:53 23/11/2024
Liên hệ tác động của các cuộc phát kiến địa lý đến ngày nay
Các cuộc phát kiến địa lý, đặc biệt là từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, đã mở ra một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nhân loại. Các nhà thám hiểm như Cristoforo Colombo, Vasco da Gama, Ferdinand Magellan... đã vượt qua những biên giới tưởng chừng không thể, mở rộng tầm nhìn và mối quan hệ giữa các quốc gia và châu lục. Những sự kiện này không chỉ làm thay đổi bản đồ thế giới mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều lĩnh vực trong xã hội và phát triển của loài người. Đến nay, những tác động của các cuộc phát kiến địa lý vẫn tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới hiện đại.
1. Tác động đến thương mại và kinh tế toàn cầu:
Một trong những tác động lớn nhất của các cuộc phát kiến địa lý là sự hình thành của thương mại toàn cầu. Khi các cường quốc châu Âu mở rộng ra ngoài biên giới châu lục của mình, họ bắt đầu thiết lập các tuyến thương mại mới. Con đường hàng hải nối liền Châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ giúp trao đổi hàng hóa, từ những mặt hàng cao cấp như gia vị, vàng bạc, lụa, cho đến những nguyên liệu thô như cây cối, ngọc trai. Đặc biệt, những tuyến thương mại xuyên đại dương đã thúc đẩy sự phát triển của các cảng biển, thương mại quốc tế, hình thành các công ty thương mại như Hội Đông Ấn Hà Lan và Hội Đông Ấn Anh. Những sự kiện này đã mở ra nền kinh tế thị trường toàn cầu hiện đại, nơi mà các quốc gia không chỉ giao thương với nhau mà còn tác động đến các nền kinh tế quốc gia khác nhau.
2. Tác động đến sự giao thoa văn hóa và sự phát triển của khoa học kỹ thuật:
Các cuộc phát kiến địa lý cũng tạo ra một sự giao thoa văn hóa giữa các nền văn minh phương Đông và phương Tây. Việc giao lưu này không chỉ diễn ra qua các chuyến đi thám hiểm mà còn qua việc trao đổi kiến thức về y học, thiên văn học, nghệ thuật, tôn giáo, và ngôn ngữ. Cái nhìn của con người về thế giới đã thay đổi hoàn toàn khi họ nhận thức được rằng Trái Đất là một hành tinh không giới hạn và vô cùng đa dạng.
Bên cạnh đó, các cuộc thám hiểm đã thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ. Cần phải có các công cụ hàng hải tiên tiến như la bàn, đồng hồ chính xác, và bản đồ để các nhà thám hiểm có thể thực hiện những chuyến đi dài ngày. Những phát minh này không chỉ giúp các cuộc hành trình đi xa mà còn đóng góp vào sự tiến bộ chung của khoa học và công nghệ, đặc biệt là trong việc định vị và đo đạc địa lý.
3. Tác động đến việc phân chia quyền lực và bản đồ chính trị:
Phát kiến địa lý đã góp phần hình thành các đế quốc châu Âu trên toàn cầu. Khi các quốc gia châu Âu bắt đầu chiếm lĩnh và tạo ra các thuộc địa ở châu Mỹ, châu Á, và châu Phi, một hệ thống quyền lực mới đã được hình thành. Đế quốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, và Hà Lan trở thành các thế lực thống trị toàn cầu. Các cuộc khai phá này không chỉ thay đổi bản đồ chính trị của các quốc gia mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi và sự phân chia tài nguyên trên toàn thế giới.
Đến nay, những hậu quả của việc chia cắt và thuộc địa hóa này vẫn còn tồn tại trong quan hệ quốc tế và trong chính trị giữa các quốc gia. Những cuộc chiến tranh giành quyền lực, các hiệp định quốc tế và các vấn đề về biên giới giữa các quốc gia vẫn có những ảnh hưởng lâu dài từ các cuộc phát kiến địa lý này.
4. Tác động đến văn hóa và xã hội hiện đại:
Các cuộc phát kiến địa lý cũng dẫn đến sự hình thành những cộng đồng di cư và định cư mới, kéo theo sự phát triển của những nền văn hóa đa dạng và phong phú. Những di dân, những người đi tìm kiếm đất mới hoặc vì lý do kinh tế, chính trị, đã tạo ra sự pha trộn giữa các nền văn hóa khác nhau, từ đó hình thành các xã hội đa văn hóa mà ngày nay chúng ta có thể thấy ở nhiều quốc gia.
Ngày nay, sự phát triển của du lịch quốc tế và giao lưu văn hóa cũng có nguồn gốc từ các cuộc phát kiến địa lý. Việc con người có thể đi du lịch đến các quốc gia khác nhau, tìm hiểu nền văn hóa, lịch sử và phong tục của các dân tộc khác nhau là một thành quả mà các cuộc phát kiến địa lý đã khai mở.
5. Tác động đến vấn đề môi trường và sự phát triển bền vững:
Mặc dù các cuộc phát kiến địa lý giúp con người tiến gần hơn với việc khám phá và chiếm lĩnh thế giới, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng nó đã góp phần tạo ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, nô lệ hóa các dân tộc bản địa và sự xuất hiện của các đế quốc đã dẫn đến nhiều tổn hại về môi trường và sự đa dạng sinh học.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển bền vững, các vấn đề môi trường trở thành một trong những vấn đề quan trọng cần được giải quyết, và những hậu quả từ các cuộc phát kiến địa lý vẫn còn tồn tại.
Tóm lại, các cuộc phát kiến địa lý không chỉ là những chuyến đi thám hiểm của các nhà hàng hải mà còn là những bước ngoặt quan trọng, tạo ra những tác động sâu rộng đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học, chính trị và xã hội. Đến ngày nay, chúng ta vẫn có thể nhận thấy những dấu ấn của những cuộc phát kiến này trong cách mà thế giới kết nối và phát triển, cũng như trong các vấn đề mà nhân loại cần đối mặt. Việc nhìn lại những tác động của các cuộc phát kiến địa lý giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về quá khứ và định hình những giải pháp cho tương lai.
Câu trả lời của bạn: 05:53 23/11/2024
Lý do tại sao nước biển ở các vùng biển có độ muối khác nhau, như biển Đỏ với độ muối lên đến 43 phần nghìn và Biển Ban Tích với độ muối dưới 10 phần nghìn, là do sự kết hợp của các yếu tố tự nhiên như lượng nước mưa, tốc độ bay hơi, dòng chảy sông và đặc điểm địa lý của từng khu vực.
1. Biển Đỏ - Độ muối cao (43 phần nghìn)
Khí hậu nóng và khô: Biển Đỏ nằm ở khu vực khí hậu sa mạc nhiệt đới, với nhiệt độ cao và lượng mưa rất ít. Điều này dẫn đến hiện tượng bay hơi mạnh trong vùng biển này. Khi nước bốc hơi, lượng muối và khoáng chất trong nước biển còn lại bị cô đặc, làm cho độ muối của nước biển tăng cao.
Lượng nước từ sông ít: Biển Đỏ có rất ít con sông đổ vào. Khi không có nước ngọt từ các con sông đưa vào biển, lượng muối không bị pha loãng và vẫn duy trì ở mức cao.
Đặc điểm địa lý: Biển Đỏ là một biển nông, không có nhiều dòng chảy và lưu thông nước mạnh mẽ, điều này khiến cho nước không được thay đổi nhiều, giúp độ muối tích tụ cao hơn.
2. Biển Ban Tích - Độ muối thấp (dưới 10 phần nghìn)
Lượng nước ngọt từ sông đổ vào lớn: Biển Ban Tích nằm ở khu vực có nhiều con sông lớn đổ vào như sông Volga và sông Dniester. Các con sông này mang theo lượng nước ngọt lớn, làm giảm độ muối của biển. Lượng nước ngọt từ các sông góp phần làm pha loãng lượng muối trong biển, khiến độ muối của biển thấp hơn so với các biển khác.
Khí hậu ôn hòa và ít bay hơi: Biển Ban Tích có khí hậu ôn đới, không quá nóng như Biển Đỏ, vì vậy hiện tượng bay hơi không mạnh mẽ như ở các khu vực nhiệt đới, giúp nước biển không bị cô đặc quá nhiều.
Lưu thông nước yếu: Biển Ban Tích là một biển nông, nhưng không có dòng chảy mạnh để làm thay đổi liên tục lượng muối trong nước. Tuy nhiên, lượng nước ngọt từ các sông lớn lại chiếm ưu thế và giữ cho độ muối thấp.
Biển Đỏ có độ muối cao do khí hậu khô, nóng, lượng nước mưa ít, bay hơi mạnh và rất ít nước ngọt từ sông đổ vào.
Biển Ban Tích có độ muối thấp do lượng nước ngọt từ các sông lớn đổ vào, giúp pha loãng độ muối và khí hậu ít bay hơi mạnh so với các khu vực nhiệt đới.
Câu trả lời của bạn: 05:52 23/11/2024
- Dữ liệu đầu vào: Một số nguyên nn, với 1≤n≤101≤n≤10.
- Kết quả: In ra bảng cửu chương của số nn từ 1×n1×n đến 10×n10×n.
1. Nhập số nn từ người dùng.
2. In ra dòng thông báo "Bang cuu chuong nn".
3. Dùng vòng lặp để tính và in ra các phép nhân từ 11 đến 1010 với nn.
`python
# Nhập số nguyên n
n = int(input())
# In tiêu đề bảng cửu chương
print(f"Bang cuu chuong {n}")
# In các phép nhân từ 1 đến 10
for i in range(1, 11):
print(f"{n} X {i} = {n * i}")
`
- n=∫(∈put())n=∫(∈put()): Nhập vào số nguyên nn.
- pr∫(fBang cuu chuong {n})pr∫(fBang cuu chuong {n}): In dòng tiêu đề bảng cửu chương với số nn.
- fori∈ran≥(1,11)fori∈ran≥(1,11): Dùng vòng lặp để tính các phép nhân từ 1 đến 10.
- pr∫(f{n} X {i} = {n * i})pr∫(f{n} X {i} = {n * i}): In kết quả của phép nhân giữa nn và ii.
Input:
33
Output:
Bangc∪chuong33X1=33X2=63X3=93X4=123X5=153X6=183X7=213X8=243X9=273X10=30
Câu trả lời của bạn: 05:52 23/11/2024
Để vẽ đồ thị quãng đường theo thời gian (đồ thị S(t)S(t)), chúng ta sẽ sử dụng thông tin đã cho để xác định quãng đường vật đi được trong mỗi khoảng thời gian.
Dữ liệu:
Trong giây đầu tiên, vật đứng yên tại một vị trí, tức là S(0)=0S(0) = 0 (quá trình này không di chuyển).
Trong 2 giây tiếp theo, vật di chuyển được 4m. Điều này có nghĩa là từ t=1t = 1 đến t=3t = 3, vật đi được 4m. Tức là, trong khoảng thời gian 2 giây (từ t=1t = 1 đến t=3t = 3), quãng đường đi được là 4m.
Trong 3 giây tiếp theo, vật di chuyển được 6m. Tức là từ t=3t = 3 đến t=6t = 6, vật đi được 6m.
Trong 4 giây tiếp theo, vật di chuyển được 8m. Tức là từ t=6t = 6 đến t=10t = 10, vật đi được 8m.
Tính quãng đường theo thời gian:
Từ t=0t = 0 đến t=1t = 1, vật đứng yên nên S(t)=0S(t) = 0.
Từ t=1t = 1 đến t=3t = 3, vật đi được 4m, do đó tại t=3t = 3, quãng đường S(3)=4S(3) = 4.
Từ t=3t = 3 đến t=6t = 6, vật đi thêm 6m, tức là tại t=6t = 6, quãng đường S(6)=4+6=10S(6) = 4 + 6 = 10.
Từ t=6t = 6 đến t=10t = 10, vật đi thêm 8m, tức là tại t=10t = 10, quãng đường S(10)=10+8=18S(10) = 10 + 8 = 18.
Lập bảng giá trị quãng đường theo thời gian:
Thời gian (t)
Quãng đường (S)
0
0
1
0
2
0
3
4
4
4
5
4
6
10
7
10
8
10
9
10
10
18
Vẽ đồ thị:
Đồ thị quãng đường theo thời gian sẽ có các điểm sau:
(0,0)(0, 0), (1,0)(1, 0), (2,0)(2, 0), (3,4)(3, 4), (4,4)(4, 4), (5,4)(5, 4), (6,10)(6, 10), (7,10)(7, 10), (8,10)(8, 10), (9,10)(9, 10), (10,18)(10, 18).
Đồ thị sẽ là một đường gấp khúc (không phải đường thẳng) vì tốc độ chuyển động của vật không đều và có những khoảng thời gian nghỉ, vì vậy đồ thị sẽ có các đoạn thẳng nối giữa các điểm.
Câu trả lời của bạn: 05:51 23/11/2024
Do đáy là những hình chữ nhật bằng nhau nên có diện tích đáy bằng nhau
Lại có chiều cao của cốc nhỏ bằng 2323chiều cao của cốc to nên dung tích cốc nhỏ bằng 2323dung tích cốc to
Dung tích cốc nhỏ là:
150:(3−2).2=300(ml)
Dung tích cốc to là:
300+150=450(ml)
Đáp số: Cốc nhỏ: 300(ml)
Cốc to: 450(ml
Câu trả lời của bạn: 05:50 23/11/2024
Cụm từ "how long" thường được sử dụng để hỏi hoặc nói về thời gian kéo dài của một sự việc, sự kiện hoặc hành động nào đó. Bạn có thể sử dụng "how long" trong các trường hợp sau:
1. Dùng để hỏi về khoảng thời gian một hành động diễn ra:
Khi bạn muốn biết một hành động hoặc sự kiện đã kéo dài bao lâu hoặc sẽ kéo dài trong bao lâu.
Câu hỏi:How long have you been studying English?
(Bạn học tiếng Anh bao lâu rồi?)
How long does it take to get from here to the airport?
(Mất bao lâu để đi từ đây đến sân bay?)
Câu trả lời (dùng "how long" để trả lời):I have been studying English for 5 years.
(Tôi đã học tiếng Anh 5 năm.)
It takes about 30 minutes.
(Mất khoảng 30 phút.)
2. Dùng để diễn tả một khoảng thời gian mà một hành động/sự việc kéo dài:
Khi bạn muốn nói rằng một hành động/sự việc kéo dài trong một khoảng thời gian nào đó.
Câu có "how long":
How long did the meeting last?
(Cuộc họp kéo dài bao lâu?)
Câu trả lời:
The meeting lasted for two hours.
(Cuộc họp kéo dài hai giờ.)
3. Dùng trong câu phủ định, khẳng định hay câu điều kiện để chỉ thời gian:
Bạn có thể dùng "how long" trong các câu này để diễn tả thời gian của hành động/sự kiện.
Ví dụ câu khẳng định:
I don't know how long it will take to finish this project.
(Tôi không biết bao lâu sẽ hoàn thành dự án này.)
Ví dụ câu phủ định:
She hasn't told me how long she will stay in Vietnam.
(Cô ấy chưa nói với tôi cô ấy sẽ ở Việt Nam bao lâu.)
Ví dụ câu điều kiện:
If you ask him how long he needs, he will give you a precise answer.
(Nếu bạn hỏi anh ấy cần bao lâu, anh ấy sẽ trả lời chính xác.)
4. Thể hiện sự mong đợi hoặc yêu cầu về thời gian trong tương lai:
Bạn có thể dùng "how long" khi muốn hỏi hoặc nói về một khoảng thời gian trong tương lai.
Ví dụ:
How long will it take to get the results?
(Mất bao lâu để có kết quả?)
Tóm lại:
How long được dùng khi bạn muốn hỏi về thời gian kéo dài của một hành động hoặc sự kiện.
Câu hỏi thường có cấu trúc: How long + động từ (thể hiện hành động).
Bạn có thể dùng "how long" trong cả câu hỏi, câu khẳng định, phủ định, và câu điều kiện để chỉ thời gian kéo dài của sự việc hoặc hành động.
Câu trả lời của bạn: 05:49 23/11/2024
a) Chỉ ra sự thay đổi cảm xúc có thể xảy ra của nhân vật trong tình huống sau
Tình huống 1: Cuối tiết học, cô giáo trả bài kiểm tra, T bị điểm kém. Đến tiết tiếp theo, T không thể tập trung học được.
Tình huống 2: Các bạn lớp em đều rất háo hức với chuyến trải nghiệm vào cuối tuần. Khi cô giáo thông báo vì thời tiết không đảm bảo nên nhà trường hoãn chuyến đi này, không khí trong lớp bỗng chùng hẳn xuống.
b)Chia sẻ những thay đổi cảm xúc của em trong một số tình huống cụ thể(mong mn giúp chiều nay mik thi r ạ)