Quảng cáo
2 câu trả lời 322
Xưa kia, nhà nước Âu Lạc do vua An Dương Vương trị vì, là người nổi tiếng anh minh, sáng suốt, được nhân dân hết mực tin tưởng.
Vua quyết định dời đô từ vùng núi về đóng đô tại Phong Khê, để tăng cường sức mạnh cho đất nước, ông đã cho binh lính xây dựng thành lũy, nhưng dù đã rất cố gắng, xem xét mọi việc cẩn thận và tỉ mỉ nhưng thành xây đến đâu thì lại lở đến đấy, mãi không xong. Sau khi hội họp quần thần trong triều, nhà vua quyết định lập một dàn trai giới khẩn cầu trăm vị thần linh khắp chốn. Đúng vào ngày mồng bảy tháng ba, một cụ già râu tóc bạc phơ trong như một vị thần xuất hiện, tự xưng là người từ phương Đông tới, cụ đứng trước cổng thành mà than: "Thành này xây khó lòng mà xong được đấy!", An Dương Vương mừng vui ra đón, làm nghi lễ chào hỏi rồi thưa: "Thưa ngài, thành này ta cũng đã xây đắp một thời gian rồi, tốn không biết bao nhiêu công sức, tiền của vậy mà chẳng xong, vừa xây đã lở, không biết là cớ làm sao vậy?"
Nhà vua vừa dứt, cụ già bèn bảo rằng: "Sắp tới đây sứ Thanh Giang tới giúp, thành mới được xây xong trọn vẹn". Nói xong, cụ từ biệt vua và quần thần ra về.
Ngày mồng tám tháng ba, nhà vua nhận được tin sứ Thanh Giang đang trên đường tới. Nhanh chóng sai người chuẩn bị đồ tế rồi ra nghênh đón. Từ phương đông một con Rùa Vàng nổi trên mặt nước tới, Rùa Vàng xưng là sứ Thanh Giang, có khả năng thông tỏ việc âm dương, trời đất, quỷ thần. Nhà vua mừng rỡ, sai quân đưa xe bằng vàng ra để rước Rùa vàng vào thành.
Nhờ sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang, thành nhanh chóng được xây xong chỉ trong vòng nửa tháng. Thành lũy kiên cố, vững chắc thuận lợi cho việc phòng thủ, thành xây theo hình trôn ốc, rộng hơn ngàn trượng, thành được gọi với tên Loa Thành, vào đời Đường người ta gọi với cái tên khác là Côn Lôn Thành.
Sau khi thành được xây xong, dần đi vào ổn định, An Dương Vương mời Rùa Vàng ở lại cùng, sứ Thành Giang đồng ý và ở lại đây 3 năm, sau đó dặn dò để về. Lúc đó, nhà vua đang một nỗi băn khoăn về sự tham lam cuồng phá xâm lược của giặc, lại lúc thế nước còn chưa vững, bèn nói lời cảm tạ và hỏi: "Thành xây được là nhờ đức ơn của thần, cảm tạ người đã thương lòng giúp đỡ. Nhưng nay còn có một nỗi trăn trở là nếu chẳng mày giặc ngoài có đến thì không biết lấy gì mà chống?" Nghe vậy, Rùa Vàng từ tốn bảo: "Vận nước suy hay thịnh, xã tắc an hay nguy phụ thuộc mệnh trời, nước có kéo dài thời vận hay không là do phúc phần, đức độ của con người, biết tu tâm tích đức, biết cảnh giác trước âm mưu thù địch thì ắt nước nhà vững bền. Ngươi ước muốn điều tốt cho xã tắc thì ta có tiếc chi".
Nói rồi, sứ tháo vuốt trao cho vua mà dặn: "Giặc có đến, hãy đem vật này làm lẫy nỏ, nhắm vào địch mà bắn thì sẽ không còn lo gì nữa" rồi theo biển Đông mà mất hút.
Nghe lời sứ, vua bèn sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy luốt làm lẫy thần, gọi nỏ là : "Lĩnh Quang Kim Quy thần cơ" như một sự tri ân, đời đời nhớ đến ơn sứ thần.
Thời gian sau đó, Triệu Đà đem quân sang xâm lược nước ta, giao chiến với An Dương Vương. Khi chúng kéo đến quân đến thành, vua lấy nỏ thần ra chiến, quân Đà bại trận phải bỏ chạy về chân núi Trâu Sơn, không dám chiến bèn xin hoà hoãn với vua An Dương Vương.
Không bao lâu, Trọng Thủy là con trai của Triệu Đà sang câu hôn, lấy cớ kết tình thân ái mà xin gả Mị Châu- con gái của An Dương Vương. Tin vào sự hoà hiếu của Đà, vua đồng ý con gái. Mị Châu luôn tin tưởng chồng hết mực, lời ngon ngọt của Trọng Thủy xin xem nỏ thần khiến nàng động lòng mà đưa cho chàng xem. Nhân lúc đó, Trọng Thủy làm một cái Nỏ khác, đánh tráo Nỏ thần, rồi trả lại cho Mị Châu, sau đó, mượn cớ về phương Bắc thăm cha mà đi. Trước lúc về, hắn bảo Mị Châu: "Vợ chồng nghĩa sâu, tình nặng, ơn mẹ cha biển rộng, sông sâu, khó lòng dứt bỏ. Này ta trở về thăm cha, nhỡ sự hai nước thất hoà, ta đi tìm nàng bất lấy gì mà làm dấu?". Mị Châu âu yếm nhìn chồng mà dặn: "Vốn là phận nữ nhi, gặp cảnh lý biệt ắt hẳn đau đớn bội phần. Chiếc áo lông ngỗng này thiếp luôn mang bên mình, nếu có giặc, đi đến đâu có ngã ba đường, thiếp sẽ rắc lông làm dấu, chàng cứ lần theo dấu vết ấy sẽ cứu được nhau".
Trọng Thủy đem lẫy về với vua cha, quân Đà nắm được điểm yếu của vua An, bèn tức tốc đưa quân sáng chiếm đánh. An Dương Vương cậy mình có nỏ thần mà vẫn chẳng mảy may lo sợ, điềm nhiên chơi cờ, còn tự tin mà bảo "Nỏ thần bất bại, Đà lại không sợ sao?".
Khi quân Đà kéo sát chân thành, vua mới lấy Nỏ thần ra bắn, nào ngờ lẫy mất, sợ hãi, tính mưu bỏ chạy. An Dương Vương cùng Mị Châu lên ngựa, nhắm thẳng phương Nam mà chạy. Khi đánh tan quân trong thành, Trọng Thủy lần theo dấu ngỗng đuổi theo cha con Mị Châu. An Dương Vương chạy đến bờ biển thì đường cùng, bèn khẩn thiết cầu xin sứ Thanh Giang cứu: "Vận nước đã suy, trời đã khiến ta mất nước, mất đi Âu Lạc yêu quý. Sứ Thanh Giang ở chốn nào, mong ngài màu mau lại cứu". Rùa Vàng hiện lên vừa lúc Trọng Thủy đuổi tới. Sứ chỉ vào Mị Châu rồi nói: "Giặc đâu có xa xôi, ở ngay sau lưng ngươi đấy”, bây giờ cả An Dương Vương và Mị Châu mới vỡ lẽ. Đau đớn xót xa, Mị Châu đưa ánh mắt tủi hờn, đau đớn về phía Trọng Thủy mà nói trong nỗi uất hận, nghẹn ngào: "Trọng Thủy, sao chàng lại bội bạc với ta như thế? Sao chàng lại hành động bất nhân đến vậy? Chàng đã phản bội niềm tin yêu của ta, đã khiến cha con ta đến đường cùng, đẩy nhân dân Âu Lạc vào lầm than, tăm tối. Kẻ hai lòng như chàng sao xứng đáng có được tình yêu từ ta. Ta đã sai, đã sai thật rồi!". Trọng Thủy mắt đẫm lệ, dù biết có thanh minh trăm lần không hết tội, nhưng nhìn thấy Mị Châu đau khổ, Thủy không cầm lòng được mà rằng: "Mị Châu nàng ơi, lòng ta yêu nàng là thực, trái tim ta chưa một lần giả dối với tình yêu ấy. Nhưng nợ nước phải trả, ơn cha phải đền, đó là lòng trung hiếu. Nếu ta không nghe lời vua cha thì là kẻ bội nước, bội dân, mong nàng hiểu, nghĩ đến những ngày mặn nồng mà thứ tha cho ta. Hãy cùng ta trở về và sống hạnh phúc bên nhau. Ta xin nàng đấy!"
Mị Châu cười trong nước mắt:
"Một lần bất tín, vạn lần bất tin. Tha thứ cho chàng ư, không bao giờ. Kẻ như chàng nào xứng đáng". Nói rồi Mị Châu nhảy xuống ngựa, quỳ gối trước thần Kim Quy và vua cha mà nói: "Thưa cha, nay có sứ Thanh giang chứng giám, con một lòng với cha, với nhân dân Âu Lạc, chưa một lần dám nghĩ đến việc phản nước, bán nhân dân. Nhưng đau đớn thay cho kẻ ngu muội như con, lòng tin đem đặt nhầm chỗ, cuối cùng lại là kẻ tiếp tay hại cha nước mất nhà tan. Con xin lấy cái chết của mình như lời đền tội, dù biết trăm thân mình cũng không xoá hết mọi lỗi gây ra. Chỉ mong rằng khi chết đi, nếu trời cao thấu hiểu tấm lòng này, hãy cho thân ta thành ngọc Mị Nương để rửa mối nhục thù". Nói rồi, nàng rút kiếm nơi yên ngựa mà tự kết liễu mình.
An Dương Vương thấy con gái chết, lòng đau như cắt, nhìn nước nhà tan càng vạn lần đau đơn. Nhà vua nhảy xuống biển, được sứ Thanh Giang rẽ nước dẫn xuống Long Cung.
Mình Trọng Thủy ở lại chốn nhân gian, đắng cay trước cái chết của Mị Châu, chàng đến bên ôm lấy Mị châu mà khóc lóc thảm thiết. Dường như nỗi dằn vặt, khổ đau khôn thấu đã khiến Trọng Thủy không thể chịu đựng được, chàng vùng dao đâm thẳng vào tim chết cùng Mị Châu. Máu Mị Châu chảy xuống biển được trai sò ăn phải biến thành hạt châu. Xác Trọng Thủy hoá thành giếng nước bên cạnh, những viên ngọc dưới biển Đông được người đời mò thấy đem rửa bằng nước giếng ấy sáng lại càng thêm sáng. Có lẽ rằng, ở chốn xa xôi, Trọng Thủy đã tìm gặp nàng và được nàng tha thứ.
Sau khi kế tục sự nghiệp dựng nước của 18 đời Hùng Vương, An Dương Vương Thục Phán đã đánh tan năm mươi vạn quân Tần xâm lược; đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc và dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh, Phong Châu xuống vùng Phong Khê, hay còn gọi là vùng Kẻ Chủ, tức cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội ngày nay.
An Dương Vương bắt tay ngay vào việc xây thành nhưng ngặt nỗi cứ ngày xây lên đêm lại đổ xuống, mãi không xong. Nhà vua bèn sai các quan lập đàn để cầu đảo bách thần, xin thần linh phù trợ. Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy, nhà vua bỗng thấy có một cụ già râu tóc bạc phơ, tay chống cây gậy trúc, thong thả từ phía đông đi tới trước cổng thành, ngửa cổ mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Mừng rỡ, An Dương vương rước cụ già vào trong điện, kính cẩn hỏi rằng: "Ta đắp thành này đã tốn nhiều công sức mà không được, là cớ làm sao?”. Cụ già thong thả đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thì mới thành công." Nói xong, cụ già từ biệt ra đi.
Sáng hôm sau, có một con rùa lớn nổi lên mặt nước, tự xưng là sứ Thanh Giang, bảo với An Dương Vương rằng muốn xây được thảnh thì phải diệt trừ hết lũ yêu quái thường hay quấy nhiễu. Quả nhiên, sau khi Rùa Vàng giúp nhà vua diệt trừ yêu quái thì chỉ khoảng nửa tháng là thành đã xây xong. Thành xây theo hình trôn ốc, rộng hơn ngàn trượng nên gọi là thành Ốc hay Loa Thành. Rùa Vàng ở lại ba năm thì ra đi. Lúc chia tay, An Dương Vương cảm tạ nói: “Nhờ ơn Thần mà thành đã xây xong. Nay nếu có giặc ngoài đến thì lấy gì mà chống?". Rùa Vàng tháo một chiếc vuốt trao cho An Dương Vương, dặn hãy lấy làm lẫy nỏ. Giặc đến, cứ nhằm mà bắn thì sẽ không lo gì nữa. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông. Nhà vua sai một tướng tài là Cao Lỗ chế ra chiếc nỏ lớn, lấy vuốt của Rùa Vàng làm lẫy. Đó là nỏ thần Kim Quy.
Ít lâu sau, Triệu Đà đem quân sang xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương lấy nỏ thần ra bắn, mỗi phát bắn chết hàng vạn lên giặc. Chúng hoảng sợ quay đầu chạy về đến núi Trâu, cầm cự được vài ngày rồi rút về nước. Dân chúng Âu Lạc hân hoan mừng chiến thắng vẻ vang của vị vua tài giỏi.
Thấy không nuốt nổi Âu Lạc bằng phương cách tấn công, Triệu Đà nghĩ ra một âm mưu thâm hiểm khác. Hắn cho con trai là Trọng Thuỷ qua cầu hôn Mị Châu - con gái yêu của An Dương Vương. Không chút nghi ngờ, nhà vua vui lòng gả và còn cho phép Trọng Thuỳ được ở rể trong Loa Thành.
Theo lời cha dặn, Trọng Thuỷ ngầm để ý dò xét khắp nơi và rắp tâm phát hiện bằng được bí mật của nò thần. Mị Châu nhẹ dạ, lại thực lòng yêu thương chồng nên đã đưa Trọng Thuỷ vào tận nơi cất giấu nỏ thần. Trọng Thuỷ chế ra chiếc lẫy giống y như thật rồi đánh tráo, thay vuốt Rùa Vàng. Xong việc, Trọng Thuỷ nói với vợ: "Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu đến lúc hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta trở lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?". Mị Châu ngây thơ đáp: "Thiếp có cái áo lông ngỗng thường mặc, khi gặp biến, đi đến đâu sẽ rắc lông ngỗng ở ngã ba đường làm dấu mà tìm nhau".
Trọng Thuỷ về đến nhà, Triệu Đà lập tức cất binh sang đánh Âu Lạc. Nghe tin báo hàng chục vạn quân giặc đã tràn sang, cậy có nỏ thần, An Dương Vương vẫn ngồi ung dung đánh cờ và cười nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Quân Đà tiến sát cổng thành, vua mới sai lấy nỏ thần ra bắn nhưng không linh nghiệm nữa.
Hai cha con đành lên ngựa, nhằm hướng phương Nam mà chạy, nhưng chạy đến đâu quân giặc cứ theo dấu lông ngỗng mà đuổi theo đến đó. Ra tới sát bờ biển, An Dương Vương cùng đường bèn kêu lớn: "Sứ Thanh Giang ở đâu mau đến cứu ta!". Ngay lập tức, Rùa Vàng hiện lên, chỉ tay vào Mị Châu mà nói với An Dương Vương rằng: “Kẻ ngồi sau lưng ngựa chính là giặc đó!”. Hiểu ra cớ sự, An Dương Vương nổi giận, tuốt gươm định chém Mị Châu thì vừa lúc ấy, Trọng Thuỷ cũng đến nơi, chàng lao vào đỡ nhát kiếm oan nghiệt của An Dương vương thay cho người vợ thân yêu. Bỗng nhiên, mặt nước rẽ ra, Rùa Vàng đón An Dương Vương xuống biển. Mị Châu nước mắt chan hoà, vùng chạy theo cha nhưng những đợt sóng giận dữ tung bọt trắng xoá đã ngăn bước chân nàng. Nàng gục xuống bên xác chồng, nức nở.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK210230
-
Hỏi từ APP VIETJACK158610
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
135710 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
70590 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
47718 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
37059 -
Hỏi từ APP VIETJACK34530
-
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
34175
