Quảng cáo
3 câu trả lời 4014
Tố Hữu là một nhà thơ lớn, xuất sắc trong nền văn thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ đồ sộ, thơ ông được coi là biên niên sử bằng thơ. Đối với Tố Hữu, ông quan niệm con đường thơ ca cũng giống với con đường cách mạng. Vậy nên thơ ông thường song hành cùng con đường cách mạng qua đó đã phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta. Qua bài thơ Nhớ đồng, người cộng sản trẻ tuổi bày tỏ nỗi niềm thương nhớ đồng quê, thương nhớ cảnh vật con người, đồng đội đồng bào của mình trong những tháng ngày bị giam giữa ở nhà lao Thừa Thiên Huế.
Tháng 7 năm 1939 trong khi hoạt động cách mạng, Tố Hữu đã bị thực dân Pháp bắt và nhốt giam tại nhà tù ở Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm lẻ loi trong tù ngục tối tăm nhưng chính hoàn cảnh sống ấy đã gợi cho ông nguồn cảm hứng dạt dào để làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh ấy và được rút từ tập thơ “Từ ấy” trong phần xiềng xích của tác phẩm. Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của tập thơ Từ ấy.
“Cô đơn thay là cảnh thân tù
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..”
Đó chính là cái cảm giác cô đơn, lẻ loi, đơn độc khi Tố Hữu bị bắt giảm, sống cách biệt với thế giớ bên ngoài. Vì vậy chỉ là một âm thanh hay một tiếng động nhỏ nào từ bên ngoài dội vào thôi cũng đủ để gợi cho nhà thơ một nỗi nhớ tha thiết, khôn nguôi. Chẳng phải là tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng bao la khắc khoải gọi hè về như trong tác phẩm “Khi con tu hú”, mà đây chỉ là tiếng hò quen thuộc của nơi đồng quê:
“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!”
Bài thơ được gợi cảm hứng từ tiếng hò thân quen đã trở thành điệp khúc lặp đi lặp lại về nỗi thương nhớ, nỗi cô đơn, hiu quạnh, lạnh lẽo của người tù.
Tiếng hò đã gợi ra biết bao nỗi nhớ, kí ức về hình ảnh quen thuộc nơi đồng quê hiện về trong tâm trí tác giả:
“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”
Âm thanh tiếng hò- một âm thanh gần gũi, quen thuộc nơi quê nhà của tác giả. Trong sự xa cách ấy, nỗi nhớ của nhà thơ dường như càng mãnh liệt và da diết hơn biết bao. Giờ đây, hình ảnh, mùi vị, màu săc, âm thanh của quê hương càng trở nên thật thân thương, gần gũi đến lạ thường.
Không chỉ nhớ về đồng quê, Tố Hữu còn nhớ tới hình ảnh con người lao động – những người dân nơi thôn quê cần cù, giản dị mà chất phác, họ đã quen với việc “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:
“Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?”
Đó là những người nông dân, chăm chỉ, chịu khó quanh năm lao động cật lực, họ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Người nông dân cùng luống cày gian nan, vất vả, theo thời gian, theo năm tháng lưng của họ càn còng dần. Thế nhưng dù cho có phải ở trong bùn đen lấm lem bụi bẩn, ở họ vẫn toát lên một vẻ đẹp nhân hậu, sáng ngời của phẩm chất trong sáng. Chính những người lao động giản gị, mộc mạc, chân chất thôn quê ấy lại là những người sẽ gieo thêm những tia hi vọng vào một tương lai sáng ngời.
Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi nhớ thương da diết của mình qua các chi tiết, hình ảnh: giọng hò, sương, lúa, tiếng xe lùa nước,…. Tất cả đều là mang một sự thân quen của nơi quê hương xa xôi, cách trở. Và nhà thơ nhớ da diết tới những âm thanh, hình ảnh ấy. Từ đó, theo dòng hồi tửng, Tố Hữu lại nghĩ bản thân về cảnh tù đày, đến đây tác giả như có chút chạnh lòng chợt len lỏi vào trong tâm khảm của người chiến sĩ cách mạng:
“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”
Tất cả những điều là quen thuộc và thân thương nhất, nhưng vào khoảnh khắc này, nhà thơ lại chẳng thấy gì “đâu cả rồi“. Câu hỏi ấy vang lên nhưng chẳn có một lời đáp, điều đó như là một nhát dao đâm sâu vào trong lòng người tù, khiến cho người thi sĩ trở nên đau đớn, xót xa, tủi nhục hơn bao giờ hết. Giờ đây, khi ở trong nhà lao tăm tối này, mọi thứ trở nên cách biệt và xa xôi biết nhường nào. Và trong nỗi nhớ thương da diết ấy, hình ảnh người mẹ già yêu dấu đã hiện lên trong tâm trí tác giả. Mẹ- chính là người mà tác giả nhớ nhất, thương nhất trong nỗi nhớ của mình.
Và sau những thoáng tủi hổ, buồn thương ấy, người chiến sĩ lại thiết tha với tình yêu cuộc sống, anh ấy lại dũng cảm kiên trì, đấu tranh với những phút giây yếu mềm để vượt qua nó. Và thế là khát khao được tự do, được giả thoát lại sôi sục trong trái tim cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng:
“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say hương đồng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời”
Hình ảnh chú chim sơn ca như là một biểu tượng đại diện cho khát khao được tự do sải rộng cánh bay trên bầu trời trong xanh và rộng lớn kia. Đây có lẽ là tâm trạng vui tươi nhất của người chiến sĩ khi bị giam cầm trong tù.
Nỗi nhớ thương của tác giả được đánh thức bởi “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò ấy đã gợi dậy về một thế giới khác bên ngoài nhà giam cùng những cảnh sắc và những hình dáng quen thuộc. Để rồi nhớ về quá khứ, những ngày còn được tự cống hiến bản thân cho cách mạng, và cuối cùng khi trở về với thực tại đau thương, một lần nữa khao khát được tự do, được dâng hiến mình cho đảng lại sôi sục trong lòng người chiến sĩ.
Bài văn nghị luận: Cảm nhận hai khổ thơ cuối bài thơ "Nhớ quê" – Bình Nguyên Trang
Bài thơ "Nhớ quê" của Bình Nguyên Trang là tiếng lòng thổn thức, da diết của người con xa quê luôn hướng về nguồn cội. Trong đó, hai khổ thơ cuối là nơi cảm xúc dâng trào mãnh liệt nhất:
“Muốn bắc chiếc cầu qua sông
Để về tắm lại bến trong tuổi hồng
Muốn làm cánh diều mênh mông
Bay qua cánh bãi nghe lòng thảnh thơi…”
Hai khổ thơ khép lại bài thơ bằng hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo, giàu cảm xúc. Người con xa quê muốn “bắc chiếc cầu qua sông”, một cây cầu không chỉ nối hai bờ mà còn là cầu nối giữa hiện tại và ký ức, giữa người con và quê hương tuổi thơ. Ước muốn ấy vừa thiết tha vừa day dứt. Càng xa quê, người ta càng khao khát trở về, để “tắm lại bến trong tuổi hồng” – dòng nước tinh khôi của một thời thơ bé, hồn nhiên.
Ước mơ hóa thành cánh diều “mênh mông” bay qua “cánh bãi”, bay trên không gian bình yên của quê nhà, để lòng được “thảnh thơi”. Đó không chỉ là khung cảnh thiên nhiên mà còn là một cõi đi về tinh thần – nơi trái tim tìm thấy sự an yên.
Hai khổ thơ cuối không chỉ nói lên nỗi nhớ quê chân thành, sâu nặng mà còn là biểu hiện của tâm hồn thơ mộng, đầy yêu thương và trân trọng với nơi đã sinh ra mình. Bằng hình ảnh gần gũi, lối biểu đạt giản dị mà lắng sâu, Bình Nguyên Trang đã chạm đến trái tim người đọc – nhất là những ai đang sống xa quê hương.
Trong hai khổ thơ cuối của tác giả Bình Nguyên Trang, hình ảnh quê hương hiện lên thật sống động và đầy cảm xúc. Qua những câu thơ, ta cảm nhận được nỗi nhớ quê chân thành của tác giả, cũng như những gắn bó sâu sắc với nơi mình đã sinh ra và lớn lên. Đây không chỉ là những dòng thơ đơn thuần mà còn là tiếng lòng của những người con xa quê, thể hiện tình yêu quê hương tha thiết.
Khổ thơ đầu tiên mở ra với câu hỏi tu từ “Quê hương chiều... em có nhớ hay không?”, gợi lên sự hoài niệm về một thời đã qua. Tác giả nhắc đến hình ảnh “màu xanh bờ bãi” cùng với “câu hò ơ đằm thắm mãi bên sông”, tạo nên một không gian bình yên, tươi đẹp của quê hương. Những chi tiết rất đỗi quen thuộc này không chỉ làm sống dậy kỷ niệm, mà còn thể hiện sự gắn bó mật thiết của tác giả với quê nhà. Hình ảnh “cánh chim” bay đi xa, “mà chẳng hề ngoái lại” như một biểu tượng cho khát khao tự do, vươn tới những chân trời mới, nhưng đồng thời cũng là lời nhắc nhở về trách nhiệm và tình cảm đối với quê hương. Dù có đi đâu, quê hương vẫn luôn là nơi chốn để trở về, là nguồn cội nuôi dưỡng tâm hồn.
Khổ thơ thứ hai làm nổi bật sự đối lập giữa sự tự do trong mơ ước và thực tại gắn bó với quê hương. Câu thơ “Chẳng là gì nếu con ước mình như cánh chim” thể hiện lòng khát khao bay nhảy, nhưng đồng thời cũng cho thấy sự trăn trở về việc rời xa quê hương. Tác giả không chỉ đơn thuần nói về nỗi nhớ quê, mà còn là sự đấu tranh giữa ước mơ và thực tại. Tình yêu quê hương không chỉ là những hình ảnh đẹp đẽ, mà còn là nỗi nhớ, là sự tiếc nuối, là những cảm xúc sâu lắng mà mỗi người con đất Việt đều có thể cảm nhận được.
Tóm lại, hai khổ thơ cuối của tác giả Bình Nguyên Trang không chỉ mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu sắc về nỗi nhớ quê mà còn khắc họa rõ nét tâm tư của những người con xa quê. Qua đó, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế tình yêu quê hương, niềm trân trọng và nỗi nhớ nhung không nguôi của những người sống xa nơi mình đã lớn lên. Quê hương, với tất cả những gì giản dị và bình yên, mãi mãi là một phần không thể thiếu trong tâm hồn mỗi người.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
247033 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
76509 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
60914 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
60669 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
51848 -
46168
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
43267 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
40569 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38190
