Quảng cáo
3 câu trả lời 106
Công cuộc dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam, diễn ra vào cuối thế kỷ 10, khi đất nước rơi vào tình trạng chia rẽ và loạn lạc. Đây là quá trình Đinh Bộ Lĩnh, một người tướng tài ba, đã thống nhất đất nước, chấm dứt tình trạng chia cắt và mang lại một sự ổn định cho quốc gia.
1. Bối cảnh lịch sử:
Sau khi nhà Ngô diệt vong vào năm 965, nước Đại Cồ Việt rơi vào tình trạng phân liệt với 12 sứ quân mạnh mẽ, chiếm đóng các khu vực khác nhau, mỗi sứ quân có một thế lực riêng, gây ra tình trạng loạn lạc kéo dài. Các sứ quân này thường xuyên tranh giành quyền lực và không có sự liên kết với nhau, gây bất ổn cho đất nước.
Các sứ quân này thường là các tướng lĩnh của triều đại Ngô, và mỗi người chiếm giữ một khu vực quan trọng, làm chủ các vùng đất như: Khúc Thừa Dụ ở miền Bắc, Ngô Xương Ngập ở miền Trung, Phạm Bạch Hổ ở miền Nam, v.v. Họ đều tranh giành quyền lực và sử dụng quân đội để duy trì sự kiểm soát của mình.
2. Đinh Bộ Lĩnh và công cuộc dẹp loạn:
Đinh Bộ Lĩnh là một người xuất thân trong gia đình có dòng dõi quý tộc, được coi là một người tài ba, có chí khí và võ công. Ban đầu, ông chỉ là một vị tướng dưới quyền của sứ quân Ngô Xương Ngập, nhưng với tài năng của mình, Đinh Bộ Lĩnh đã dần dần thu hút được sự ủng hộ của các bộ lạc và quân đội.
Sau khi Ngô Xương Ngập qua đời, Đinh Bộ Lĩnh đứng ra lãnh đạo và bắt đầu công cuộc thống nhất đất nước. Ông đã tiến hành một loạt các chiến dịch quân sự quyết liệt, tiêu diệt từng sứ quân, đánh bại họ một cách nhanh chóng.
3. Quá trình dẹp loạn:
Đinh Bộ Lĩnh đã bắt đầu với việc đánh bại các sứ quân lớn, trong đó có sứ quân Khúc Thừa Dụ ở miền Bắc, sứ quân Ngô Xương Ngập ở miền Trung và các sứ quân khác. Các chiến thắng của Đinh Bộ Lĩnh đã thu hút thêm sự ủng hộ từ các tầng lớp trong xã hội và quân đội.
Một trong những chiến công lớn của Đinh Bộ Lĩnh là chiến thắng trong trận đánh tại sông Cái, nơi ông đánh bại sứ quân Phạm Bạch Hổ. Sau chiến thắng này, Đinh Bộ Lĩnh đã củng cố được quyền lực của mình và tiếp tục tiến quân vào các vùng đất còn lại.
Bằng những chiến lược tài tình, Đinh Bộ Lĩnh không chỉ dẹp loạn mà còn xây dựng được một đội quân hùng mạnh và tổ chức được một bộ máy cai trị hiệu quả.
4. Kết quả và ý nghĩa:
Sau chiến thắng trước các sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh đã thống nhất đất nước và trở thành vua đầu tiên của nhà Đinh, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Đây là dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam, chấm dứt thời kỳ loạn lạc và chia rẽ.
Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua vào năm 968 và bắt đầu thiết lập chính quyền, xây dựng hệ thống cai trị, củng cố lực lượng quân sự và ổn định đất nước.
Sự kiện này cũng mở đầu cho một thời kỳ ổn định và phát triển sau nhiều năm chiến tranh và loạn lạc. Đinh Bộ Lĩnh được coi là một trong những vị vua sáng suốt và tài ba trong lịch sử Việt Nam.
5. Tầm quan trọng:
Công cuộc dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị mà còn thể hiện tầm nhìn và khả năng lãnh đạo của ông. Việc thống nhất đất nước đã giúp tạo dựng nền tảng cho các triều đại sau này, đặc biệt là nhà Lê và nhà Lý, tiếp tục phát triển và bảo vệ đất nước.
Với chiến thắng này, Đinh Bộ Lĩnh đã để lại một dấu ấn lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Công cuộc dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh là một sự kiện lịch sử quan trọng trong thế kỷ X, đặt nền móng cho sự thống nhất đất nước và thành lập nhà nước Đại Cồ Việt. Sau khi Ngô Quyền mất vào năm 944, đất nước rơi vào cảnh chia cắt do các sứ quân nổi dậy chiếm cứ từng vùng, tự xưng vương và cát cứ, gây ra loạn lạc nghiêm trọng.
Diễn biến chính:
Đinh Bộ Lĩnh, người gốc Hoa Lư (Ninh Bình), nổi bật với tài năng lãnh đạo và sự quyết đoán. Ông cùng các tướng lĩnh tài giỏi như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn... đã thực hiện nhiều trận đánh lớn nhỏ, từng bước tiêu diệt các sứ quân như Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh, Kiều Công Hãn... Sau nhiều năm chiến đấu, ông đã thu phục hoàn toàn 12 sứ quân, thống nhất đất nước vào năm 968.
Kết quả:
Đinh Bộ Lĩnh xưng Hoàng đế, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt, đặt kinh đô tại Hoa Lư, tự xưng là Đinh Tiên Hoàng. Ông đã thiết lập một chính quyền tập trung mạnh mẽ, ổn định đất nước sau thời kỳ loạn lạc kéo dài.
Ý nghĩa lịch sử:
Công cuộc dẹp loạn 12 sứ quân không chỉ giúp khôi phục sự thống nhất đất nước mà còn khẳng định vai trò quan trọng của Đinh Bộ Lĩnh trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Thành công này đã đặt nền móng cho sự phát triển của nhà nước phong kiến độc lập, tạo tiền đề cho sự trường tồn của quốc gia qua nhiều thế kỷ.
1. Đinh Bộ Lĩnh đã liên kết với sứ quân nào?
Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944) ủy thác con trưởng là Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha - em của Dương hậu, triều đình Cổ Loa rối ren, không thể với tay kiểm soát các địa phương xa xôi. Chính tỏng khoảng thời gian đó (945 - 950), Đinh Bộ Lĩnh đã toàn quyền làm chủ vùng đất Hoa Lư và khu vực xung quanh; sử cũ nói "Từ đây ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre...".
Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi đánh Thái Bình. Ngô Xương Văn dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Xương Văn không giết Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Chương Dương công. Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương đóng đo ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập về. Được Dương thái hậu chuẩn tấu, Ngô Xương Ngập cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Lúc đó cùng tồn tại hai vua Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Sử sách gọi là Hậu Ngô Vương.
Năm 951, lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh đã khá mạnh. Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập ở triều đình Cổ Loa đem quân đánh hàng tháng trời không thắng, phải rút quân về. Về sau, Đinh Bộ Lĩnh thấy Trần Lãm (Trần Minh Công) chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Thái Bình), là một sứ quân mạnh, đức độ nhưng không có con, liền cùng con trai là Đinh Liễn sang nương tựa. Trần Lãm thấy Đinh Bộ Lĩnh có tướng mạo khôi ngô, lại có chí lớn, liền nhận làm con nuôi, rồi giao binh quyền.
Sau khi Trần Lãm mấy, Đinh Bộ Lĩnh đứng ra thay thế, chỉ huy lực lượng quân sự của Trần Lãm. Nhận thấy địa hình Bố Hải Khẩu là đồng bằng, bất lợi trong khi công và thủ; ngược lại, Hoa Lư có núi non trùng điệp, sông ngòi uốn khúc, địa thế hiểm trở, thuận lợi cho cả thấn công lẫn phòng thủ, lại còn là vùng đất khá màu mỡ, quân có thể vừa chiến đấu vừa sản xuất. Do vậy, Đinh Bộ Lĩnh đã đưa quân về Hoa Lư, tiếp tục chiêu mộ hào kiệt, chuẩn bị binh lực và tiến hành đánh dẹp các sứ quân.
Đinh Bộ Lĩnh là một nhà quân sự đầy kinh nghiệm, một vị tướng có tầm chiến lược cao, sách lược khôn ngoan, sáng suốt. Để thực hiện mục tiêu chiến lược là dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh không dựa vào binh hùng thế mạnh để tiến đánh theo lối "cuốn chiếu", mà đã áp dụng chiến thuật "bẻ đũa từng chiếc", kết hợp giữa quân sự (hành quân đánh dẹp) với chính trị (liên kết, hàng phục).
Có thể coi sứ quân Trần Lãm là sứ quan được Đinh Bộ Lĩnh thu phục đầu tiên. Với việc liên kết với sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu, thế lực của Đinh Bộ Lĩnh trở nên mạnh mẽ, không chỉ về mặt lượng quân sự, tiềm lực kinh tế, phạm vi vùng đất kiểm soát, mà về cả sự tăng thêm uy thế cá nhân với sức thuyết phục, quy tụ to lớn.
2. Mười hai (12) sứ quân
Từ năm 966 hình thành đầy đủ 12 sứ quân chiếm giữ các địa phương:
Ngô Xương Xi giữ Bình Kiều (Triệu Sơn - Thanh Hóa)
Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động Giang (Thanh Oai, Hà Nội)
Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố (Thái Bình)
Kiều Công Hãn tự xưng là Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch Hạc (Việt Trì - Lâm Thao, Phú Thọ)
Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc)
Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội)
Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh)
Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du (Bắc Ninh)
Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên)
Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê (Phú Thọ)
Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu (Hưng Yên)
Trong các sứ quân trên:
Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh là quý tộc nhà Ngô; Phạm Bạch Hổ, Đỗ Cảnh Thạc, Kiểu Công Hãn là tướng nhà Ngô; các sứ quân còn lại được xác định là các thủ lĩnh địa phương.
Một số trong 12 thủ lĩnh cát cứ có gốc là người Hoa: Đỗ Cảnh Thạc gốc người Quảng Lăng, Trần Lãm là người gốc Quảng Đông; Nguyễn Khoan, Nguyễn Siêu, Nguyễn Thủ Tiệp là 3 anh em gốc người Phúc Kiến.
Lực lượng sứ quân Trần Lãm sau khi sứ tướng mất hợp nhất về với sứ quân Đinh Bộ Lĩnh. Kiều Công Hãn, Kiều Thuận là 2 anh em, cháu nội Kiều Công Tiễn.
3. Dẹp loạn 12 sứ quân và khai sinh Nhà nước Đại Cồ Việt
Đinh Bộ Lĩnh (924 - 979) sinh vào ngày Rằm tháng Hai, năm Giáp Thân (924), quê thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình). Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoang Châu. Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ngoại (Gia Thủy - Nho Quan - Ninh Bình) sinh sống. Từ bé, Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bậy trận giả đánh nhau. Sau này, Đinh Bộ Lĩnh cũng là người có công quyết định trong việc dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt - nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước như vậy, Đinh Bộ Lĩnh cùng với những người bạn thân thiết như Đinh Điền, Nguyễn Bặc đã đứng lên tập hợp lực lượng, rèn vũ khí, chiếm giữ vùng Hoa Lư, chờ thời cơ dẹp loạn. Căn cứ của ông dần mở rộng từ Hoa Lư ra đến vùng đồng bằng ven sông Hồng. Để tăng thêm lực lượng, Đinh Bộ Lĩnh đã liên kết với sứ quân Trần Lãm ở Thái Bình, bằng việc đưa con trai là Đinh Liễn sang đầu quân cho Trần Lãm. Sau đó, Đinh Bộ Lĩnh được Trần Lãm troa toàn bộ binh quyền và tiếp tục chiêu mộ binh lính, xây dựng lực lượng, hòng thu phục các sứ quân.
Mở đầu, ông đã chiêu phục dụ hàng được sứ quân của Phạm Bạch Hổ (Hưng Yên). Sau đó, ông dẫn đại binh ra Giao Châu lần lượt đánh bại, chiêu dụ được các sứ quân còn lại.
Đối với hai sứ quân Ngô Nhật Khánh và Ngô Xương Xí, Đinh Bộ Lĩnh không dùng binh đao mà dùng kế dụ hàng.
Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc rất mạnh, có thành cao và hào sâu. Để thu phục được sứ quân này, ông kết hợp dùng cả mưu và quân sự mạnh. Ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vây bốn mặt thành và tiến đánh bất ngờ vào Trại Quyền của sứ quân. Khi đó, Đỗ Cảnh Thạc đang ở đồn Đảo Đà, không ứng cứu được nhau. Hai bên tiếp tục giao tranh hơn một năm. Cuối cùng, Đỗ Cảnh Thạc bị trúng tên và chết. Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành.
Biết Đinh Bộ Lĩnh chuẩn bị đánh thành, sứ quân Nguyễn Siêu đem một vạn quân đóng ở Thanh Đàm - Hà Nội, chuẩn bị nghênh chiến. Trong trận giao đấu đầu tiên, bên nghĩa quân Đinh Bộ Lĩnh bị mất bốn tướng (Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn). Sau đó, sứ quân Nguyễn Siêu chia một nửa quân giữ trại, một nửa vượt sông tìm viện binh các sứ khác. Đang vượt sông, cánh quân này bị gió lớn làm đắm thuyền. Biết tin, Đinh Bộ Lĩnh cho quân tấn công tiêu diệt. Sứ quân Nguyễn Siêu bị giết chết.
Đối với sứ quân Kiều Công Hãn: thấy nghĩa quân của Đinh Bộ Lĩnh quá mạnh, nên chạy vào Thanh Hóa để liên kết với sứ quân Ngô Xương Xí. Nhưng chạy đến Vạn Kiếp (Nam Định) thì bị hào trưởng địa phương là Nguyễn Tấn đem quân chặn đánh. Kiều Công Hãn bị thương, bỏ chạy, sau đó thì mất. Các sứ quân còn lại tiếp tục bị nghĩa quân của Đinh Bộ Lĩnh đánh bại hoặc thu phục quy hàng. Đến cuối năm 967, cuộc chinh chiến dẹp loạn kết thúc. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, niên hiệu là Thái Bình, kinh đô là Hoa Lư. Một quốc gia độc lập, có quốc hiệu, có nhà nước riêng, do hoàng đế đứng đầu đã được xác lập.
Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh trong dẹp loạn 12 sứ quân và lập nên nhà nước Đại Cồ Việt là thắng lợi của tinh thần tự lập, tự cường, tự tôn dân tộc. Đó cũng là thắng lợi có tính thời đại sâu sắc - thống nhất quốc gia, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, trước nguy cơ xâm lấn của ngoại bang phương Bắc - mở đầu cho các triều đại phong kiến nước ta sau này.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
11 46210
-
Hỏi từ APP VIETJACK4 45965
-
6 30775