Đoạn trích thứ nhất:
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo!Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… "
(Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục)
Đoạn trích thứ hai:
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.
(Tô Hoài - Tuyển Tập Truyện Ngắn Hay, NXB Văn Học 2019)
Quảng cáo
2 câu trả lời 2139
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam, hai nhà văn Nam Cao và Tô Hoài đều nổi bật với những tác phẩm phản ánh sâu sắc số phận con người, đặc biệt là những người nông dân và tầng lớp thấp kém trong xã hội. Đoạn trích từ "Chí Phèo" của Nam Cao và "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài là hai minh chứng điển hình cho tài năng trần thuật của các tác giả này. Cả hai đoạn trích đều sử dụng nghệ thuật trần thuật độc đáo, phản ánh hiện thực xã hội qua góc nhìn nhân vật, nhưng mỗi nhà văn lại có một cách tiếp cận và xử lý vấn đề khác nhau.
Nghệ thuật trần thuật trong đoạn trích "Chí Phèo" của Nam Cao
Trong đoạn trích "Chí Phèo", Nam Cao sử dụng ngôi kể thứ ba kết hợp với tự sự từ trong tâm trí nhân vật để miêu tả hành động và suy nghĩ của Chí Phèo. Cách trần thuật này cho phép Nam Cao đi sâu vào tâm lý nhân vật, đặc biệt là những cơn giận dữ và sự cô đơn trong tâm hồn Chí Phèo. Mở đầu, Chí Phèo "vừa đi vừa chửi", và Nam Cao đã khéo léo sử dụng lối miêu tả trực tiếp hành động này để thể hiện sự cuồng loạn, bế tắc trong tâm lý của nhân vật. Lời chửi của Chí Phèo không chỉ là sự phản kháng vô cớ mà còn là sự bộc lộ của sự tức giận vô cùng đối với xã hội, cuộc đời và chính bản thân mình.
Cách sử dụng đoạn độc thoại nội tâm trong đoạn văn rất đặc biệt, thể hiện rõ ràng sự mâu thuẫn và rối ren trong tâm trí nhân vật. Những câu chửi bậy, không đầu không cuối, nhưng lại đầy tính chất vòng vo thể hiện một sự bế tắc và chán chường đến cực độ của nhân vật. Hành động chửi trời, chửi đời rồi lại quay sang chửi làng Vũ Đại, cuối cùng lại tự trách mình vì không có ai chửi lại, cho thấy sự đơn độc và tủi nhục của Chí Phèo. Cái "khổ" của Chí Phèo không chỉ là nỗi đau từ xã hội mà còn là sự khổ tâm trong chính bản thân. Những câu văn dài và không có dấu câu, liên tiếp, như một dòng suy nghĩ không ngừng nghỉ, thể hiện một sự trần thuật theo kiểu stream of consciousness (dòng ý thức).
Nghệ thuật trần thuật trong đoạn trích "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài
Trong khi Nam Cao khai thác tâm lý nhân vật theo chiều sâu nội tâm thì Tô Hoài lại sử dụng ngôi kể thứ ba nhưng với cách tường thuật khách quan và miêu tả chi tiết ngoại hình cùng những hành động của nhân vật. Đoạn trích từ "Vợ chồng A Phủ" thể hiện một cái nhìn bao quát về nhân vật Mị, qua đó tác giả không chỉ mô tả sự đau khổ của cô mà còn phản ánh hiện thực xã hội qua những chi tiết đời sống. Mị "cúi mặt, mặt buồn rười rượi" khi ngồi quay sợi gai, một hình ảnh làm nổi bật sự nghèo khổ và tủi nhục của người con gái trong xã hội phong kiến.
Tô Hoài không chỉ miêu tả hành động của Mị mà còn sử dụng những chi tiết ngoại cảnh như cảnh nhà thống lý Pá Tra để làm nền cho số phận nhân vật. Việc Mị "cúi mặt, mặt buồn" khi làm công việc nhà, dù là công việc nặng nhọc nhưng lại cho thấy một sự tuyệt vọng, một cuộc sống bị chèn ép, khổ đau không lối thoát. Phân tích thêm về nhân vật A Sử, Tô Hoài khéo léo thể hiện sự đối lập giữa phong kiến và sự tha hóa của quyền lực qua hành động và thái độ của A Sử đối với Mị, thể hiện sự tàn nhẫn và vô cảm trong xã hội lúc bấy giờ.
So sánh nghệ thuật trần thuật của Nam Cao và Tô Hoài
Cả hai tác giả đều sử dụng ngôi kể thứ ba để thể hiện những số phận khổ đau của các nhân vật, nhưng mỗi nhà văn lại có một cách tiếp cận khác nhau. Nam Cao đi sâu vào tâm lý nhân vật với những đoạn độc thoại nội tâm phức tạp, thể hiện sự bế tắc, cô đơn và khổ đau của Chí Phèo. Ngược lại, Tô Hoài lại miêu tả hành động và cảnh vật để phác họa lên một bức tranh hiện thực xã hội nơi nhân vật Mị phải chịu sự áp bức, bóc lột của hệ thống phong kiến.
Nam Cao sử dụng lối viết dài, gãy gọn, không ngắt câu để mô tả dòng ý thức của nhân vật, cho thấy sự mệt mỏi, bất lực trong suy nghĩ của Chí Phèo. Còn Tô Hoài lại sử dụng cách kể chuyện tỉ mỉ, chi tiết với những miêu tả sắc nét về ngoại hình và hành động của nhân vật, khiến người đọc dễ dàng hình dung về sự cô đơn, tủi nhục trong cuộc sống của Mị.
Mặc dù cả Nam Cao và Tô Hoài đều khai thác những mảng tối trong xã hội và nhân tính, nhưng cách thức trần thuật của hai nhà văn này lại có sự khác biệt rõ rệt. Nam Cao tập trung vào nội tâm nhân vật, còn Tô Hoài lại chú trọng đến hành động và bối cảnh. Điều này không chỉ thể hiện phong cách sáng tác của từng tác giả mà còn làm nổi bật thế giới nội tâm và hoàn cảnh xã hội mà các nhân vật phải chịu đựng. Cả hai đều thành công trong việc khắc họa hiện thực xã hội và số phận con người qua những phương thức trần thuật độc đáo.
Đoạn trích từ "Chí Phèo" của Nam Cao và "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài đều là những tác phẩm văn xuôi kinh điển, phản ánh chân thực những số phận bị áp bức trong xã hội phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, hai nhà văn đã chọn hai lối trần thuật khác nhau để khắc họa sâu sắc tính cách, hoàn cảnh nhân vật, làm nổi bật những mâu thuẫn xã hội và thông điệp mà họ muốn gửi gắm.
Trong đoạn trích từ Chí Phèo, Nam Cao sử dụng nghệ thuật trần thuật với giọng điệu châm biếm, khôi hài nhưng đầy xót xa. Nhân vật Chí Phèo hiện lên như một kẻ say rượu, miệng lải nhải chửi trời, chửi đời, chửi làng Vũ Đại, rồi chửi chính số phận của mình. Qua cách trần thuật này, Nam Cao đã phơi bày sự cô độc, lạc lõng của Chí Phèo trong xã hội. Chí Phèo tuy cất tiếng chửi, nhưng lại là tiếng chửi trong tuyệt vọng, không ai thèm đáp lại, khiến hắn càng trở nên lạc lõng, vô định. Bằng nghệ thuật trần thuật tự nhiên, giản dị nhưng sâu sắc, Nam Cao khéo léo thể hiện bi kịch tâm hồn của Chí Phèo - một con người mất đi quyền làm người, mất đi cái tên thật của mình, chỉ còn là một "thằng Chí Phèo" vô định và khổ đau. Nghệ thuật trần thuật của Nam Cao giúp người đọc cảm nhận được sự tàn phá của xã hội đối với những cá nhân như Chí Phèo, biến họ từ những con người bình thường thành những kẻ mất phương hướng, bị chối bỏ bởi xã hội.
Trong khi đó, đoạn trích từ Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mang một sắc thái trần thuật khác, dịu dàng nhưng đậm chất hiện thực, như một bức tranh miêu tả cuộc sống hàng ngày của người dân miền núi Tây Bắc. Nhân vật Mị, trong lần đầu xuất hiện, được Tô Hoài miêu tả qua dáng vẻ lặng lẽ, buồn bã khi ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa nhà thống lí Pá Tra. Lối trần thuật của Tô Hoài không trực tiếp khắc họa nội tâm nhân vật qua ngôn từ như Nam Cao, mà sử dụng những chi tiết miêu tả ngoại hình và hoạt động hàng ngày của Mị để người đọc cảm nhận dần dần nỗi khổ của cô. Tô Hoài không cần kể lể mà vẫn thể hiện rõ cuộc đời bị cầm tù, vùi dập của Mị trong căn nhà thống lí giàu có nhưng đầy ám ảnh của quyền lực và sự áp bức. Nghệ thuật trần thuật tinh tế của Tô Hoài đã tạo nên một hình ảnh đầy ám ảnh về sự cam chịu, bất lực của người phụ nữ nơi núi rừng.
So sánh hai lối trần thuật, có thể thấy rằng Nam Cao và Tô Hoài đều sử dụng cách miêu tả độc đáo của riêng mình để thể hiện sự đau khổ và tuyệt vọng của nhân vật, nhưng với hai phong cách khác nhau. Nam Cao chọn cách trần thuật qua suy nghĩ, lời nói của Chí Phèo, giúp người đọc trực tiếp nhìn thấy sự giằng xé nội tâm của nhân vật. Cách trần thuật này tạo ra một sự gần gũi, khi mỗi tiếng chửi của Chí Phèo đều như một lời kêu cứu của một người đã hoàn toàn tuyệt vọng. Ngược lại, Tô Hoài chọn cách khắc họa Mị qua hành động thường ngày, vẻ mặt và thái độ lặng lẽ, giúp người đọc cảm nhận dần nỗi buồn sâu kín và cuộc sống u uất của cô trong không gian ngột ngạt của nhà thống lí. Cách trần thuật này khiến nhân vật trở nên thầm lặng, càng làm nổi bật sự đối lập giữa vẻ ngoài giàu sang của nhà Pá Tra và nỗi đau của người phụ nữ bị cầm tù
Tóm lại, nghệ thuật trần thuật của Nam Cao và Tô Hoài đều tinh tế và sâu sắc, tuy khác biệt về phong cách nhưng đều nhằm mục đích phản ánh những bi kịch của con người trong xã hội phong kiến. Qua đó, hai nhà văn không chỉ truyền tải nỗi đau của nhân vật mà còn gợi lên trong lòng người đọc những suy nghĩ về thân phận con người trong xã hội, sự tàn nhẫn của những hủ tục và định kiến
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
34288
-
30119
-
Hỏi từ APP VIETJACK28428
