Quảng cáo
3 câu trả lời 247
Dưới đây là một số suy nghĩ về việc trao và nhận duyên của Thúy Kiều và Thúy Vân trong tác phẩm *Truyện Kiều* của Nguyễn Du:
### 1. Bối cảnh nhân vật
Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em trong một gia đình nho học. Thúy Kiều là người xinh đẹp, tài năng, nhưng số phận lại đầy truân chuyên. Ngược lại, Thúy Vân, với tính cách hiền lành, nhu mì, tuy không nổi bật bằng Kiều nhưng lại có số phận thuận lợi hơn.
### 2. Trao duyên của Thúy Kiều
- **Hy sinh vì tình yêu:** Khi gặp gỡ và yêu Kim Trọng, Thúy Kiều đã phải đối mặt với những khó khăn và thử thách trong tình yêu. Kiều chấp nhận hy sinh hạnh phúc của mình để bảo vệ danh dự và gia đình. Khi gia đình gặp hoạn nạn, Kiều quyết định nhường lại duyên phận cho Thúy Vân. Hành động này thể hiện tấm lòng cao cả, sự hy sinh và tình yêu thương giữa hai chị em.
- **Định mệnh trớ trêu:** Dù Thúy Kiều có tâm hồn cao đẹp và tài năng xuất sắc, nhưng số phận của cô lại đầy bi kịch. Trao duyên cho Thúy Vân không chỉ là hành động hy sinh mà còn là sự chấp nhận định mệnh của bản thân. Kiều hiểu rằng mình không thể có hạnh phúc trọn vẹn, vì vậy cô quyết định để Vân có cơ hội được hạnh phúc.
### 3. Nhận duyên của Thúy Vân
- **Sự nhẫn nại và khéo léo:** Thúy Vân là người biết chấp nhận và nhẫn nhịn. Khi nhận duyên từ Thúy Kiều, Vân không chỉ là người thay thế mà còn là người mang trong mình trách nhiệm tiếp nối mối tình của Kiều. Vân hiểu rằng việc này không chỉ ảnh hưởng đến bản thân mà còn liên quan đến cả gia đình và Kiều.
- **Trách nhiệm và tình yêu:** Dù có tình cảm với Kim Trọng, Vân vẫn ý thức được tình cảm và nỗi đau của chị. Sự nhẫn nhịn của Vân cho thấy cô không chỉ là người thay thế mà còn là người chăm sóc và che chở cho hạnh phúc của chị mình.
### 4. Mối quan hệ giữa hai chị em
- **Tình chị em:** Mối quan hệ giữa Thúy Kiều và Thúy Vân được xây dựng trên nền tảng tình thương và sự hy sinh. Họ luôn quan tâm đến hạnh phúc của nhau. Việc Kiều trao duyên cho Vân không chỉ là một hành động hy sinh mà còn thể hiện sự tin tưởng và gắn bó giữa hai chị em.
- **Tương phản trong số phận:** Trong khi Kiều chịu nhiều đau khổ, Vân lại có cuộc sống bình yên hơn. Điều này tạo nên sự tương phản rõ nét, phản ánh sự bất công trong cuộc sống và số phận con người.
### Kết luận
Trao và nhận duyên giữa Thúy Kiều và Thúy Vân là một biểu tượng cho tình yêu thương, sự hy sinh và trách nhiệm trong tình chị em. Câu chuyện không chỉ thể hiện những khía cạnh đẹp đẽ của tình cảm gia đình mà còn phản ánh thực trạng xã hội phong kiến với những bi kịch và bất công trong cuộc đời con người. Sự hy sinh của Thúy Kiều và sự nhận duyên của Thúy Vân không chỉ là sự tiếp nối tình yêu mà còn là những bài học sâu sắc về lòng vị tha và sự chấp nhận định mệnh.
“Truyện Kiều” với 3245 câu thơ lục bát của đại thi hào Nguyễn Du là bức tranh chân thực về đời sống xã hội mỗi câu thơ đều thấm vào lòng người hơn nữa còn khắc họa muôn màu muôn vẻ chiều sâu tâm hồn con người Việt Nam. "Trao duyên" là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều. Đoạn trích đã tái hiện thành công diễn biến tâm lí phức tạp và sự giằng xé tâm trạng của Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.
Đoạn trích “Trao duyên” nằm ở câu thơ 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”. Đây cũng chính là quãng thời gian khép lại cuộc sống êm đềm, hạnh phúc của Kiều và mở ra đoạn đời phiêu bạt, đau khổ dằng dặc.
Do gia đình Thuý Kiều gặp biến cố nên nàng Kiều phải hy sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình cho Mã Giám Sinh nhằm cứu cha và em. Cuối cùng, những day dứt về mối tình mới chàng Kim đã khiến Kiều đi đến quyết định nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để trả nghĩa của Kim Trọng. Qua những hành động đó cho thấy tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều với cha mẹ, nàng là người sống có trách nhiệm với gia đình và là người trọng tình trọng nghĩa và chung thuỷ với người yêu của mình.
Những giây phút Kiều còn có thể làm chủ cuộc đời còn rất ngắn ngủi nên Kiều có đã sắp đặt buổi “Trao duyên”:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Đầu câu thơ đặt từ "Cậy" thể hiện sự tha thiết, khẩn khoản đưa Thuý Vân tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn đường lui của Kiều để cô Thuý Vân không thể từ chối với lời nhờ cậy đó của chị gái mình.. Tác giả dùng từ "Cậy" thay vì “nhờ” thể hiện tấm lòng của Thúy Kiều, một lòng tin tưởng trọn vẹn Thúy Vân.
Sau những lời mào đầu tha thiết, Thúy Kiều đã bày tỏ nỗi lòng của mình để thuyết phục Vân. Nguyễn Du đã thâm nhập vào sâu thẳm của nội tâm nàng Kiều và khắc họa tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp ấy. Đầu tiên, Kiều nói về đoạn tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Hoàn cảnh "đứt gánh tương tư" cho thấy sự đổ vỡ của tình yêu. Từ “gánh” vốn dùng để chỉ một khối lượng vật chất, còn “tương tư” lại là thứ vô hình, không cân đo được. “Keo loan” là thứ máu của chim loan mà giờ đây nàng phải dùng nó để chắp “mối tơ thừa”. Sau khi nhắc đến kỉ niệm tình yêu với Kim Trọng, cho thấy sự trân trọng của mình dành cho mối tình ấy, Kiều đã thuật lại biến cố đau thương khiến nàng rơi vào tình cảnh hiện tại để mong nhận được sự cảm thông, thấu hiểu từ em:
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Gia đình tai biến, Kiều đã đặt chữ “Hiếu” lên trên chữ “Tình”. Giờ đây, “Hiếu” đã phần nào vẹn toàn còn “Tình” đành nhờ Vân san sẻ giúp. Kiều dằn lòng mình, lấy lời lẽ khéo léo để khuyên em, thuyết phục em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Nàng sử dụng hàng loạt các từ ngữ: tình máu mủ, thịt nát xương mòn, lời nước non có tác dụng lớn trong việc thuyết phục Thúy Vân. Nàng ràng buộc Vân bằng tình ruột thịt, máu mủ lại cầu khẩn em cho mình chút vui, chút ơn vì đức hi sinh cao cả của em. Lời thơ vừa thuyết phục, vừa cầu khẩn, lại vừa ràng buộc đã giúp Kiều diễn đạt được mục đích của mình: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Những thành ngữ “tình máu mủ”, “lời nước non” thể hiện hàm ý tha thiết cậy nhờ em. Kiều đã phải viện đến tình ruột thịt để mong em nghĩ đến tình ấy mà giúp mình. Để thể hiện sự tôn trọng, trân quý dành cho Vân, Kiều còn lấy chính bản thân mình ra thuyết phục em:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Những thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối” đều ngầm chỉ cái chết. Thuý Kiều tự coi mình là một người sắp chết và đang nói lời trăng trối với người còn sống. Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng đã biết dùng lý trí đè nén tình cảm đúng lúc, đúng chỗ.
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phim đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Nghĩa cho Kim Trọng đã trả, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản, đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim và Kiều. Kiều bất ngờ cảm nhận được tương lai tan vỡ. Một bên là hạnh phúc nên vợ nên chồng của Vân, một bên là sự cô quạnh của nàng.
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, khác hẳn với không khí trang trọng lúc bắt đầu trao duyên. Một loạt từ ngữ, hình ảnh như “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch thân phận trái ngang. Nàng thương cho chính mình và lòng vẫn canh cánh “mang nặng lời thề” kể cả khi chết đi rồi. Chính vì thế, Thúy Kiều tha thiết dặn em:
“Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Dù có “cách mặt khuất lời” thì Vân hãy cứ rưới chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy Kiều vẫn có nhiều tâm tư ấm ức, oan uổng nên sau khi chết hồn oan không tan, không được siêu thoát.
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Trong câu thơ trên, việc Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan”. “Trâm” và “gương” vốn tượng trưng cho những hình ảnh đẹp đẽ về dung mạo của người con gái. Giờ đây, trâm đã gãy, gương đã tan chính là tuổi xuân tươi đẹp bị hủy hoại. “Muôn vàn ái ân” thể hiện rằng thứ tình cảm này không thể cân đo đong đếm được. Câu thơ một lần nữa cho thấy sự trân trọng, nâng niu dành của Kiều đối với mối tình đầu. Từ thời gian tâm trạng về thực tại, từ đối diện với chính mình, Thuý Kiều chuyển sang đối thoại với Kim Trọng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”
Tác giả đã dùng số từ “Trăm nghìn” để ước lệ về sự lớn lao, vô hạn trong sự đối lập với “ngần ấy thôi” thể hiện sự nhỏ bé, khiêm nhường. Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến chàng Kim, nhận lỗi về mình đã lỡ để cho “tơ duyên ngắn ngủi”. Lời thơ đã diễn tả bi kịch, nỗi đau đớn quằn quại của Thuý Kiều và khát vọng tình yêu mãnh liệt không thôi.
Nỗi đau cứ dâng lên không ngừng, Kiều đã rút hết nỗi lòng mà khóc nức nở cho thân phận của mình:
“Phận sao phận bạc như với
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình. Chính cái sắc, cái tài đã làm khổ nàng, để cung đàn “Bạc mệnh” đeo đuổi suốt đời người con gái.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác. Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế, cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.
Diễn biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau xót.
Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình, kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, các hình ảnh giàu giá trị biểu cảm cùng các điển tích điển cố để xây dựng đoạn trích “Trao duyên”. Đoạn trích đã cho thấy tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du, thể hiện niềm cảm thông, trân trọng của ông đối với những số phận bất hạnh và lên án gay gắt xã hội đồng tiền tước đi hạnh phúc con người.
Trân trọng nàng Kiều, chúng ta càng trân trọng cái tài và cái tâm của Nguyễn Du. Tiếng lòng của Kiều chính là tiếng lòng của rất nhiều con người, cuộc đời nàng đã đi vào tâm thức muôn người Việt Nam
Nguyễn Du đã sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, sáng tạo nêu bật nên vẻ đẹp về hình thể cũng như tâm hồn của nhân vật Thuý Kiều một người trọng chữ hiếu, trọng tình nghĩa hết lòng vì mối lương duyên đã hẹn ước tuy nhiên hồng nhan bạc phận khiến nàng đành phải cậy nhờ cô em với vẻ đẹp nghiên nước nghiêng thành như mình để thay thế vào chỗ trống với Kim Trọng. Nguyễn Du thật sự khéo léo và sáng tạo trong cách thể hiện nội tâm nhân vật. Đoạn trích đã một lần nữa khẳng định nhân cách đẹp đẽ của Thúy Kiều.
“Truyện Kiều” với 3245 câu thơ lục bát của đại thi hào Nguyễn Du là bức tranh chân thực về đời sống xã hội mỗi câu thơ đều thấm vào lòng người hơn nữa còn khắc họa muôn màu muôn vẻ chiều sâu tâm hồn con người Việt Nam. "Trao duyên" là một trong những đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều. Đoạn trích đã tái hiện thành công diễn biến tâm lí phức tạp và sự giằng xé tâm trạng của Kiều trong đêm cậy nhờ Thúy Vân trả ân nghĩa cho chàng Kim.
Đoạn trích “Trao duyên” nằm ở câu thơ 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”. Đây cũng chính là quãng thời gian khép lại cuộc sống êm đềm, hạnh phúc của Kiều và mở ra đoạn đời phiêu bạt, đau khổ dằng dặc.
Do gia đình Thuý Kiều gặp biến cố nên nàng Kiều phải hy sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình cho Mã Giám Sinh nhằm cứu cha và em. Cuối cùng, những day dứt về mối tình mới chàng Kim đã khiến Kiều đi đến quyết định nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để trả nghĩa của Kim Trọng. Qua những hành động đó cho thấy tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều với cha mẹ, nàng là người sống có trách nhiệm với gia đình và là người trọng tình trọng nghĩa và chung thuỷ với người yêu của mình.
Những giây phút Kiều còn có thể làm chủ cuộc đời còn rất ngắn ngủi nên Kiều có đã sắp đặt buổi “Trao duyên”:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Đầu câu thơ đặt từ "Cậy" thể hiện sự tha thiết, khẩn khoản đưa Thuý Vân tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn đường lui của Kiều để cô Thuý Vân không thể từ chối với lời nhờ cậy đó của chị gái mình.. Tác giả dùng từ "Cậy" thay vì “nhờ” thể hiện tấm lòng của Thúy Kiều, một lòng tin tưởng trọn vẹn Thúy Vân.
Sau những lời mào đầu tha thiết, Thúy Kiều đã bày tỏ nỗi lòng của mình để thuyết phục Vân. Nguyễn Du đã thâm nhập vào sâu thẳm của nội tâm nàng Kiều và khắc họa tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp ấy. Đầu tiên, Kiều nói về đoạn tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Hoàn cảnh "đứt gánh tương tư" cho thấy sự đổ vỡ của tình yêu. Từ “gánh” vốn dùng để chỉ một khối lượng vật chất, còn “tương tư” lại là thứ vô hình, không cân đo được. “Keo loan” là thứ máu của chim loan mà giờ đây nàng phải dùng nó để chắp “mối tơ thừa”. Sau khi nhắc đến kỉ niệm tình yêu với Kim Trọng, cho thấy sự trân trọng của mình dành cho mối tình ấy, Kiều đã thuật lại biến cố đau thương khiến nàng rơi vào tình cảnh hiện tại để mong nhận được sự cảm thông, thấu hiểu từ em:
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Gia đình tai biến, Kiều đã đặt chữ “Hiếu” lên trên chữ “Tình”. Giờ đây, “Hiếu” đã phần nào vẹn toàn còn “Tình” đành nhờ Vân san sẻ giúp. Kiều dằn lòng mình, lấy lời lẽ khéo léo để khuyên em, thuyết phục em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Nàng sử dụng hàng loạt các từ ngữ: tình máu mủ, thịt nát xương mòn, lời nước non có tác dụng lớn trong việc thuyết phục Thúy Vân. Nàng ràng buộc Vân bằng tình ruột thịt, máu mủ lại cầu khẩn em cho mình chút vui, chút ơn vì đức hi sinh cao cả của em. Lời thơ vừa thuyết phục, vừa cầu khẩn, lại vừa ràng buộc đã giúp Kiều diễn đạt được mục đích của mình: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Những thành ngữ “tình máu mủ”, “lời nước non” thể hiện hàm ý tha thiết cậy nhờ em. Kiều đã phải viện đến tình ruột thịt để mong em nghĩ đến tình ấy mà giúp mình. Để thể hiện sự tôn trọng, trân quý dành cho Vân, Kiều còn lấy chính bản thân mình ra thuyết phục em:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Những thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối” đều ngầm chỉ cái chết. Thuý Kiều tự coi mình là một người sắp chết và đang nói lời trăng trối với người còn sống. Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng đã biết dùng lý trí đè nén tình cảm đúng lúc, đúng chỗ.
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phim đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Nghĩa cho Kim Trọng đã trả, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản, đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim và Kiều. Kiều bất ngờ cảm nhận được tương lai tan vỡ. Một bên là hạnh phúc nên vợ nên chồng của Vân, một bên là sự cô quạnh của nàng.
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, khác hẳn với không khí trang trọng lúc bắt đầu trao duyên. Một loạt từ ngữ, hình ảnh như “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch thân phận trái ngang. Nàng thương cho chính mình và lòng vẫn canh cánh “mang nặng lời thề” kể cả khi chết đi rồi. Chính vì thế, Thúy Kiều tha thiết dặn em:
“Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Dù có “cách mặt khuất lời” thì Vân hãy cứ rưới chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy Kiều vẫn có nhiều tâm tư ấm ức, oan uổng nên sau khi chết hồn oan không tan, không được siêu thoát.
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Trong câu thơ trên, việc Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan”. “Trâm” và “gương” vốn tượng trưng cho những hình ảnh đẹp đẽ về dung mạo của người con gái. Giờ đây, trâm đã gãy, gương đã tan chính là tuổi xuân tươi đẹp bị hủy hoại. “Muôn vàn ái ân” thể hiện rằng thứ tình cảm này không thể cân đo đong đếm được. Câu thơ một lần nữa cho thấy sự trân trọng, nâng niu dành của Kiều đối với mối tình đầu. Từ thời gian tâm trạng về thực tại, từ đối diện với chính mình, Thuý Kiều chuyển sang đối thoại với Kim Trọng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”
Tác giả đã dùng số từ “Trăm nghìn” để ước lệ về sự lớn lao, vô hạn trong sự đối lập với “ngần ấy thôi” thể hiện sự nhỏ bé, khiêm nhường. Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến chàng Kim, nhận lỗi về mình đã lỡ để cho “tơ duyên ngắn ngủi”. Lời thơ đã diễn tả bi kịch, nỗi đau đớn quằn quại của Thuý Kiều và khát vọng tình yêu mãnh liệt không thôi.
Nỗi đau cứ dâng lên không ngừng, Kiều đã rút hết nỗi lòng mà khóc nức nở cho thân phận của mình:
“Phận sao phận bạc như với
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình. Chính cái sắc, cái tài đã làm khổ nàng, để cung đàn “Bạc mệnh” đeo đuổi suốt đời người con gái.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác. Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế, cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận.
Diễn biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau xót.
Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình, kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, các hình ảnh giàu giá trị biểu cảm cùng các điển tích điển cố để xây dựng đoạn trích “Trao duyên”. Đoạn trích đã cho thấy tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du, thể hiện niềm cảm thông, trân trọng của ông đối với những số phận bất hạnh và lên án gay gắt xã hội đồng tiền tước đi hạnh phúc con người.
Trân trọng nàng Kiều, chúng ta càng trân trọng cái tài và cái tâm của Nguyễn Du. Tiếng lòng của Kiều chính là tiếng lòng của rất nhiều con người, cuộc đời nàng đã đi vào tâm thức muôn người Việt Nam
Nguyễn Du đã sử dụng thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, sáng tạo nêu bật nên vẻ đẹp về hình thể cũng như tâm hồn của nhân vật Thuý Kiều một người trọng chữ hiếu, trọng tình nghĩa hết lòng vì mối lương duyên đã hẹn ước tuy nhiên hồng nhan bạc phận khiến nàng đành phải cậy nhờ cô em với vẻ đẹp nghiên nước nghiêng thành như mình để thay thế vào chỗ trống với Kim Trọng. Nguyễn Du thật sự khéo léo và sáng tạo trong cách thể hiện nội tâm nhân vật. Đoạn trích đã một lần nữa khẳng định nhân cách đẹp đẽ của Thúy Kiều.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK72718
-
56040
-
Hỏi từ APP VIETJACK40676
-
Hỏi từ APP VIETJACK37754
