nhận xét về tâm trạng của người trinh phụ trong đoạn trích
Quảng cáo
2 câu trả lời 199
Đoạn trích về tâm trạng của người trinh phụ trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thể hiện sâu sắc nỗi đau khổ, u uất và nỗi cô đơn của nhân vật trước những bi kịch cuộc đời. Dưới đây là một số nhận xét chi tiết về tâm trạng của người trinh phụ:
### 1. **Nỗi nhớ nhung, đau khổ:**
Người trinh phụ thể hiện nỗi nhớ thương da diết đối với người yêu. Những kỷ niệm về tình yêu, những ngày tháng bên nhau như những hình ảnh đẹp đẽ, nhưng lại trở thành nỗi đau khi người yêu ra đi. Nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở hình thức nhớ nhung mà còn là sự đày đọa tâm hồn, khiến nhân vật cảm thấy trống rỗng và đau đớn.
### 2. **Sự tủi hờn và cô đơn:**
Sự tủi hờn, cô đơn trong tâm trạng của người trinh phụ thể hiện qua những suy tư, trăn trở về tình yêu và số phận. Khi mà tình yêu chân thành bị ngăn cách, người trinh phụ cảm thấy lạc lõng giữa cuộc đời, như một chiếc lá rơi giữa dòng đời hối hả. Cảm giác cô đơn đó không chỉ đến từ việc thiếu vắng người yêu mà còn từ sự hiểu biết về số phận nghiệt ngã mà nàng phải gánh chịu.
### 3. **Khát khao tự do và tình yêu:**
Người trinh phụ khát khao một tình yêu trọn vẹn, tự do trong tình cảm. Những ràng buộc của xã hội và số phận khiến nàng không thể sống thật với tình yêu của mình. Nỗi đau đớn này càng làm cho nhân vật cảm thấy bi thương, khi mà tình yêu chân thành lại không thể được trọn vẹn.
### 4. **Tâm trạng bi phẫn và bế tắc:**
Khi nhận thức rõ ràng về tình trạng của mình, người trinh phụ cảm thấy bi phẫn và bế tắc. Nỗi bất lực trước thực tại, trước sự sắp đặt của số phận khiến tâm hồn nàng càng thêm đau đớn. Sự uất ức này không chỉ là với số phận mà còn với cả những định kiến xã hội đang trói buộc nàng.
### 5. **Tình yêu cao đẹp và sự hy sinh:**
Dù trải qua nhiều nỗi đau, người trinh phụ vẫn thể hiện tình yêu cao đẹp và sự hy sinh cho người mình yêu. Tâm trạng này cho thấy một trái tim nhạy cảm, luôn hướng về tình yêu bất chấp mọi gian nan, thử thách.
### Kết luận:
Tâm trạng của người trinh phụ trong đoạn trích từ “Truyện Kiều” không chỉ là nỗi đau cá nhân mà còn phản ánh hiện thực xã hội và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó, Nguyễn Du đã khéo léo gửi gắm thông điệp về tình yêu, sự kiên cường và nỗi khát khao tự do của con người trước những ràng buộc của định mệnh.
Chinh phụ ngâm của tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, nhận được sự đồng cảm rộng rãi của người dân cũng như tầng lớp nho sĩ. Tác phẩm này phản ánh được bản chất cũng như sự đau khổ, chiến tranh phi nghĩa mà người dân phải gánh chịu trong thời kì xã hội rối ren. Đồng thời đề cao quyền sống và khao khát hạnh phúc đôi lứa, là việc mà ít tác phẩm thời này nhắc đến.
Vì như vậy có xuất hiện rất nhiều bản dịch của tác phẩm, nhưng nổi bật nhất là bản của bà Đoàn Thị Điểm sang chữ nôm. Bản dịch này được thành công cả về nội dung và nghệ thuật từ nguyên tác.
“Chinh phụ” trong Chinh phụ ngâm khúc là cô gái chỉ vừa mới tiễn chồng ra trận với hi vọng chàng sẽ lập được công danh hiển hách, mang về phú quý vinh hoa. Nhưng chỉ ngay sau khi tiễn đưa, nàng lập tức nhận ra nỗi cô đơn, lẻ loi, lo lắng từ nơi hậu phương cho chồng và hiểu rằng cảnh lứa đôi hạnh phúc ngày càng xa vời.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nằm từ câu 193 đến 288 của tác phẩm. Đó là những sắc thái khác nhau ở sự cô đơn của người phụ nữ đáng lẽ ra phải đang được hưởng hạnh phúc của tình yêu đôi lứa.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Qua những dòng thơ trên, ta có thể tưởng tượng ra được được khung cảnh hoang vắng, tĩnh mịch nơi người chinh phụ đang ở. Nàng thật nhỏ bé, cô độc biết bao giữa không gian rộng lớn: tiếng gà gáy báo canh năm, hoè phất phơ rủ bóng trong ánh sáng lờ mờ càng khiến người ta cảm được nỗi buồn bã.
Không nhắc đến chiến tranh, như ta vẫn thấy được nỗi ai oán trong lòng nàng:
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Nỗi cô đơn cứ luẩn quẩn trong đầu người chinh phụ, khiến nàng muốn nhưng cũng khó lòng thoát ra. Dù có cố gượng dậy tô son điểm phấn hay dạo đàn, thế nhưng những việc ấy dường như lại phản tác dùng vì nó nhắc nàng về tình cảnh chăn đơn gối chiếc.
Soi gương nhớ đến chồng cũng từng chung bóng, lại phản chiếu lại nhan sắc dần tàn phai. Đốt hương thì lại thấp thỏm lo âu, quả thực không lối thoát. Gảy đàn khúc long phụng sum vầy lại chạnh lòng vì sự chia lìa vợ chồng đang gánh chịu. Những vòng luẩn quẩn chỉ toàn đưa cho nàng suy nghĩ tiêu cực, đi đâu cũng đều quay trở về nỗi phiền lòng đã cũ.
Nàng chẳng dám đụng vào thứ gì nữa, vì mỗi đồ vật là một kỷ niệm, mỗi khung cảnh là một kí ức và mỗi hành động lại khiến nàng nghĩ về cảnh đoàn tụ chẳng biết bao giờ mới xảy ra. Sự chông chênh ấy làm sao mới có thể giải quyết đây, vì nó khiến người chinh phụ phải bất an và khổ sở quá rồi. Đâu còn cách nào khác, nàng chỉ đành gửi thương nhớ vào cơn gió:
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Một ý nghĩ bất chợt và có phần nên thơ xuất hiện trong đầu người chinh phụ: nhờ gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở chiến trường xa. Người chồng nơi ấy chịu bao khổ sở, vất vả chắc hẳn cũng rất nhớ thương mái ấm gia đình nơi hậu phương. Có lẽ điều ấy cũng giúp nàng giải tỏa được phần nào. Khoảng cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả ví von là thăm thẳm như được lên trời. Khoảng cách ấy vừa xa, lại vừa chẳng có cách nào có thể chạm tới. Ngắn gọn, hàm súc, chỉ với vài câu thơ thôi đã giúp ta hiểu được nỗi lo cách trở ấy.
Nàng bộc lộ cảm xúc của mình:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Sự xót xa, cay đắng được thể hiện trực tiếp qua hai câu thơ thất ngôn. Nỗi khổ tâm đang giày vò nàng ghê gớm ấy, không biết có trời xanh nào thấu được? Trời cao đất dày, liệu tâm tư nàng gửi gắm đến sẽ được tai ai?
Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Người ta nói : “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” quả thật rất đúng. Qua đôi mắt đẫm lệ của người chinh phụ, ta thấy được cả nỗi sầu thương của cảnh vật. Tâm hồn giá lạnh lại như phủ thêm tầng băng tuyết cho không gian. Giọt sương sớm long lanh không hề mang đến sự tươi mới, tiếng trùng rả rích trong đêm mưa gió lại càng tôn lên bao nỗi đoạn trường trong lòng. Dưới tình cảnh ấy, ta liền lập tức hiểu ra rằng: Cuộc sống của rất nhiều người phụ nữ trong xã hội phong kiến là bi kịch bởi chiến tranh vô nghĩa và tàn ác.
Nỗi nhớ thì vô cùng, những suy nghĩ người chinh phụ lại bị giới hạn bởi cuộc sống nghiệt ngã của mình. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn nàng: :
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Cuối cùng nàng đã hiểu được sự tàn phá ghê gớm của thời gian. Thế nhưng ít ra người ta cũng thấy được rằng, thất vọng nhưng chưa hề tuyệt vọng, vẫn còn một tia sáng lấp lánh trong lòng nàng.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
247033 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
76509 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
60914 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
60669 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
51848 -
46168
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
43267 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
40569 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38190
