A và B là vợ chồng hợp pháp, có tài sản chung là 500 triệu đồng, đã thoả thuận bằng văn
bản chia tài sản chung để A kinh doanh riêng để tránh rủi ro cho gia đình. Hai bên vẫn
hạnh phúc và sống chung, mỗi người được 250 triệu đồng. Sau khi chia tài sản thì A nói
với B là lương của B sẽ chi tiêu cho gia đình còn A kinh doanh để tích luỹ cho gia đình.
Sau 3 năm A kinh doanh thu được khoản lợi tức là 200 triệu đồng, hàng tháng B được
hưởng lương là 5 triệu đồng và chi tiêu dùng hết cho đời sống gia đình. Sau đó A đã có
hành vi ngoại tình và dùng số tiền lợi tức đó cho người tình của mình.B yêu cầu ly hôn và
yêu cầu đòi lại số tài sản đó có được không?
Quảng cáo
2 câu trả lời 722
sản riêng của A và A có toàn quyền định đoạt, muốn làm gì thì làm, muốn cho ai thì cho
(không vi phạm khoản 5 Điều 33 do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng không phải là nguồn
sống duy nhất của gia đình do đó A có quyền định đọat mà không cần hỏi ý kiến B). Việc
B phát hiện mối quan hệ bất chính của A và yêu cầu tòa cho ly hôn là có cơ sở và phùhợp các qui định của PL. Tuy nhiên việc B yêu cầu “đòi lại số tài sản đã có” là không có
cơ sở. Ở đây B không thể “đòi lại số tài sản đã có” mà B chỉ có thể đòi lại những tài sản
nào là “tài sản riêng” của mình đồng thời yêu cầu tòa phân định “phần tài sản mà mình
được chia trong khối tài sản chung của vợ chồng” mà thôi. Theo Điều 95 về nguyên tắc
chia tài sản khi ly hôn thì khi phân xử, tòa án phải bảo đảm 2 nguyên tắc : (1) “Tài sản
riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó” (khoản 1 Điều 95); (2) Tài sản
chung được giải quyết theo nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa
thuận được thì trên nguyên tắc sẽ chia đôi nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên,
công sức đóng góp của mỗi bên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa
thành niên (khoản 2 Điều 95). Như vậy, khi phân xử, tòa sẽ áp dụng nguyên tắc (1) để
công nhận những tài sản nào là tài sản riêng của B và chúng phải thuộc về B. Dĩ nhiên là
B có quyền yêu cầu tòa công nhận số lương 5 triệu/tháng (có được sau thời điểm phân
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ HN) là tài sản riêng của B (áp dụng khoản 2
Điều 8 NĐ70/2001) như đã phân tích ở trên. Đối với khối tài sản chung của cả 2 vợ
chồng thì sẽ phải áp dụng nguyên tắc (2) để phân xử. Tuy nhiên do các bên đã thỏa thuận
phân chia toàn bộ tài sản chung (có tổng gía trị là 500 triệu) đang có tại thời điểm thỏa
thuận phân chia nên coi như những tài sản chung nào có được từ thời điểm thỏa thuận
phân chia trở về trước bây giờ đã không còn. Nếu các bên có thể chứng minh được là
mình còn có những tài sản chung khác từ sau thời điểm thỏa thuận phân chia tài sản
chung (ví dụ: “tài sản do vợ chồng cùng tạo ra” hoặc “những thu nhập hợp pháp khác”
sau thời điểm thỏa thuận phân chia tài sản chung) thì họ vẫn có quyền yêu cầu tòa phân
xử để chia theo nguyên tắc
sản riêng của A và A có toàn quyền định đoạt, muốn làm gì thì làm, muốn cho ai thì cho
(không vi phạm khoản 5 Điều 33 do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng không phải là nguồn
sống duy nhất của gia đình do đó A có quyền định đọat mà không cần hỏi ý kiến B). Việc
B phát hiện mối quan hệ bất chính của A và yêu cầu tòa cho ly hôn là có cơ sở và phùhợp các qui định của PL. Tuy nhiên việc B yêu cầu “đòi lại số tài sản đã có” là không có
cơ sở. Ở đây B không thể “đòi lại số tài sản đã có” mà B chỉ có thể đòi lại những tài sản
nào là “tài sản riêng” của mình đồng thời yêu cầu tòa phân định “phần tài sản mà mình
được chia trong khối tài sản chung của vợ chồng” mà thôi. Theo Điều 95 về nguyên tắc
chia tài sản khi ly hôn thì khi phân xử, tòa án phải bảo đảm 2 nguyên tắc : (1) “Tài sản
riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó” (khoản 1 Điều 95); (2) Tài sản
chung được giải quyết theo nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa
thuận được thì trên nguyên tắc sẽ chia đôi nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên,
công sức đóng góp của mỗi bên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa
thành niên (khoản 2 Điều 95). Như vậy, khi phân xử, tòa sẽ áp dụng nguyên tắc (1) để
công nhận những tài sản nào là tài sản riêng của B và chúng phải thuộc về B. Dĩ nhiên là
B có quyền yêu cầu tòa công nhận số lương 5 triệu/tháng (có được sau thời điểm phân
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ HN) là tài sản riêng của B (áp dụng khoản 2
Điều 8 NĐ70/2001) như đã phân tích ở trên. Đối với khối tài sản chung của cả 2 vợ
chồng thì sẽ phải áp dụng nguyên tắc (2) để phân xử. Tuy nhiên do các bên đã thỏa thuận
phân chia toàn bộ tài sản chung (có tổng gía trị là 500 triệu) đang có tại thời điểm thỏa
thuận phân chia nên coi như những tài sản chung nào có được từ thời điểm thỏa thuận
phân chia trở về trước bây giờ đã không còn. Nếu các bên có thể chứng minh được là
mình còn có những tài sản chung khác từ sau thời điểm thỏa thuận phân chia tài sản
chung (ví dụ: “tài sản do vợ chồng cùng tạo ra” hoặc “những thu nhập hợp pháp khác”
sau thời điểm thỏa thuận phân chia tài sản chung) thì họ vẫn có quyền yêu cầu tòa phân
xử để chia theo nguyên tắc
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
52583 -
35000
-
Hỏi từ APP VIETJACK31237
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
30149 -
22978
