Quảng cáo
3 câu trả lời 4214
“Đã mấy hôm rày đau tiễn đưa
Người tuôn nước mắt trời tuôn mưa
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau mấy gốc dừa…”
(Bác ơi!, Tố Hữu)
Vào ngày mùng 2 tháng 9 năm 1969, người cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam - Hồ Chí Minh đã ra đi cùng với thế giới người hiền, nhà thơ Tố Hữu đã thay mặt đồng bào nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế viết lên những vần thơ thể hiện niềm kính yêu, tiếc thương vô hạn trước sự kiện lịch sử trọng đại này. Bảy năm sau ngày mất của Bác, cảm xúc ấy vẫn còn vẹn nguyên trong lòng Viễn Phương - người con của miền Nam trong một dịp ra thăm miền Bắc vào lăng viếng Bác. Điều đó đã được nhà thơ ghi lại trong bài thơ "Viếng lăng Bác" (1976) với một ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, tinh tế, giàu cảm xúc thể hiện niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn đối với vị lãnh tụ của dân tộc.
Mở đầu bài thơ là dòng cảm xúc của Viễn Phương khi ở bên ngoài lăng:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Câu thơ đầu cất lên như một lời thông báo giản dị nhưng chan chứa tình cảm thân thương: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô: xưng “con” gọi “Bác” rất gần gũi, mộc mạc thân thương. Đây là cách xưng hô thường thấy của người dân Việt Nam đối với người cha già vĩ đại của dân tộc - Bác Hồ. Nhưng với Viễn Phương, cách xưng hô ấy vẫn mang sắc thái tình cảm riêng, điều đó đã được nhà thơ nhấn mạnh ở hai chữ “miền Nam”. Miền Nam gợi đến một không gian địa lí rất xa xôi so với miền Bắc, miền Nam cũng gợi lên một mối quan hệ rất gắn bó, gần gũi trong trái tim của Người:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Tố Hữu)
Vì thế, với mối quan hệ thiết thân ấy, Viễn Phương đã không quản ngại từ miền Nam ra thăm Bác. Đặc biệt, trong câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh. Ông không sử dụng từ "viếng" mà lại sử dụng từ "thăm". Điều đó có nghĩa là với Viễn Phương, ông ra Bắc như là trở về nhà để thăm cha, thăm nơi ở, nơi nghỉ ngơi của Bác. Người đọc cảm nhận được nỗi đau xót xa trong lòng của Viễn Phương đang được ông kìm nén, giữ chặt trong lòng, không muốn biểu lộ ra bên ngoài.
Khi đứng bên ngoài lăng, hình ảnh gây ấn tượng đậm nét với Viễn Phương là hình ảnh “hàng tre”. Hình ảnh này rất giàu sức gợi: Cây tre là hình ảnh rất gần gũi, thân thuộc và thường thấy ở nông thôn, làng quê của Việt Nam. Những cây tre từ lâu cũng có ý nghĩa biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc, đã kinh qua biết bao nhiêu khó khăn, vất vả “bão táp mưa sa” mà vẫn hiên ngang, bất khuất, mạnh mẽ. Nay hình ảnh cây tre lại được nhà thơ miêu tả bằng các từ láy “xanh xanh”, “bát ngát”, gợi tả những hàng tre xanh mượt mà được trồng quanh lăng giống như cả dân tộc ta đang bên cạnh Người để bảo vệ, canh giấc ngủ bình yên cho Bác. Từ cảm thán "Ôi" thể hiện niềm cảm xúc ngỡ ngàng, ngạc nhiên tràn đầy xúc cảm của tác giả khi phát hiện ra những điều đó: hàng tre - dân tộc - chiến sĩ luôn sát cánh bên Người cả khi Người còn sống hay khi đã mất. Như vậy, nhà thơ ra Bắc thăm Bác như là một đứa con từ phương xa, nay trở về thăm nhà, thăm cha đầy xúc động, chân thành.
Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ gợi nhắc tới bao phẩm chất tốt đẹp của dân tộc ta qua hình ảnh “hàng tre” thì đến khổ hai, nhà thơ tiếp tục thể hiện những xúc cảm của mình trước những đoàn người vào lăng viếng Bác. Ở khổ hai, Viễn Phương đã tạo nên hai cặp câu, mỗi cặp câu đều có sự sóng đôi của hình ảnh tả thực và ẩn dụ. Hai câu thơ đầu, có hai hình ảnh mặt trời: “mặt trời” thứ nhất ở câu đầu là mặt trời của tự nhiên, của vũ trụ; “mặt trời” thứ hai ở câu hai là để chỉ Bác Hồ. Thực ra, việc ví Bác với mặt trời không phải là mới, trước Viễn Phương đã có rất nhiều nhà thơ đã ví Bác với mặt trời. Tố Hữu đã từng có ý thơ:
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà Đế quốc là loại dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người..."
Nhưng cái mới mẻ của Viễn Phương là đã kết hợp ẩn dụ với nghệ thuật nhân hóa. Mặt trời của tự nhiên vốn đã đẹp, vốn đã rực rỡ chói lóa, ấy vậy mà vẫn phải ngưỡng mộ trước vẻ đẹp tài năng và nhân cách của Hồ Chí Minh. Cảm nhận về hai câu thơ này, giáo sư Trần Đình Sử trong bài "Lời người con miền Nam ra thăm cha già dân tộc", đã viết: "Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen nhưng so sánh mặt trời trên lăng với mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới, xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời rất đỏ làm nhớ tới trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân". Với việc ví Bác với mặt trời, Viễn Phương vừa ca ngợi sự vĩ đại của Bác, vừa nhấn mạnh được tư tưởng ngời sáng của Người, lại vừa thể hiện được lòng thành kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác Hồ.
Hai câu tiếp, nhà thơ miêu tả cảnh dòng người lần lượt vào lăng viếng Bác:
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân..."
Điệp từ "ngày ngày" diễn tả vòng thời gian tuần hoàn liên tục, ngày nào cũng thế từng dòng người cứ lần lượt vào thăm viếng Bác. Bài thơ viết theo thể tám chữ nhưng tới câu thơ cuối khổ hai, lại dôi ra thành chín chữ một dòng thơ, kết hợp với dấu chấm lửng ở cuối câu thơ, làm cho nhịp thơ trở nên chậm lại, chứa đầy cảm xúc và khiến cho khổ thơ như vẫn tiếp tục kéo dài ra hơn. Ở đây, tác giả cũng sử dụng nghệ thuật ẩn dụ qua hình ảnh "dòng người" rất đẹp, đầy gợi cảm. Đoàn người vào lăng viếng Bác khiến tác giả liên tưởng giống như một tràng hoa và mỗi người là một bông hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác lòng thương nhớ, kính yêu. Đồng thời người đọc còn nhận ra các sử dựng từ ngữ của Viễn Phương rất độc đáo, đắc địa. Tác giả sử dụng từ "dòng người" chứ không phải là "đoàn người", "hàng người", điều đó có tác dụng gợi lên sự tiếp nối trải dài tới vô tận của những dòng người vào lăng. Cụm từ "đi trong thương nhớ" gợi tả tình yêu thương và nỗi nhớ mong của nhân dân dành cho Bác, bao trùm lên cả không gian và thời gian vô tận "ngày ngày". Đặc biệt, hình ảnh "bảy mươi chín mùa xuân" là hình ảnh hoán dụ rất đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng: Bác Hồ với bảy mươi chín tuổi xuân đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã đem lại mùa xuân lớn cho quê hương, đất nước. Tóm lại, với hai câu cuối khổ hai, nhịp thơ chậm, hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo, từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã miêu tả nhưng dòng người vào lăng viếng Bác bằng tất cả lòng thành kính, biết ơn sâu sắc.
Hòa theo dòng người vào lăng viếng Bác, khi trước di hài Bác, xúc cảm nghẹn ngào của nhà thơ được đẩy lên cao hơn:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền"
Nghệ thuật nói giảm nói tránh "giấc ngủ bình yên" có tác dụng giảm bớt sự đau thương, mất mát của cả dân tộc khi Bác đã ra đi. Đồng thời cho thấy giấc ngủ nhẹ nhàng, bình yên, thanh thản của Bác trong giấc ngủ ngàn thu. Hình ảnh "vầng trăng sáng dịu hiền" là một hình ảnh đầy chất thơ, rất giàu sức gợi. Đây là hình ảnh ẩn dụ gợi ta liên tưởng đến tâm hồn cao đẹp, trong sáng và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Qua những vần thơ về trăng của Bác, chúng ta thấy tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, chất nghệ sĩ trong con người Hồ Chí Minh. Cùng với mặt trời, hình ảnh vầng trăng đã hoàn thiện bức chân dung Hồ Chí Minh trong tâm khảm mỗi người: chói lóa, rực rỡ, trong sáng, thanh cao, hiền lương, thương mến.
“Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài văn xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình ghi lại tình cảm thành kính, sâu lắng của nhà thơ khi hòa vào dòng người đang vào viếng lăng Bác. Qua đó bài thơ được xem là tiếng nói nỗi niềm tâm sự của nhân dân giành cho Bác. Tình cảm ấy chất chứa dạt dào cho chúng ta thấy ở hai khổ thơ đầu tiên.
Khổ thơ đầu là những cảm xúc của nhà thơ khi đã đến lăng Bác, đứng trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng. Câu thơ đầu Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác như một thông báo giản dị mà chứa đựng bao tình cảm thân thương.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Cách đi vào bài của tác giả thật gần gũi và thân thương bởi nhà thơ đã hết sức khéo léo giới thiệu được vị trí của quãng đường từ miền Nam xa xôi để viếng lăng Bác. Tiếng “con” mở đầu cho bài thơ được cất lên với giọng tha thiết trìu mến, thân thuộc. Đó là cách xưng hô của người dân Nam Bộ, đã bộc lộ hết sự thương nhớ ngậm ngùi của nhà thơ nói chung và toàn thể đồng bào miền Nam nói riêng.
Trong cái mênh mang của sương mù Hà Nội, qua con mắt của nhà thơ thì ta chợt thấy một hàng tre xanh bát ngát. Khi đến với Bác, đến với hàng tre của thủ đô ta như nhớ về quê nhà, nhớ về làng mạc với những nhà mái lá che ngang, rồi nhớ về tiếng ru à ơi của bà, của mẹ. Hình ảnh nhân hóa được sử dụng trong đoạn thơ này đó chính là “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”, không những đơn thuần là hình ảnh cây tre mà tác giả còn muốn nói rằng đó là biểu tượng bất diệt, kiên cường của con người Việt Nam chúng ta, màu xanh của cây tre là màu xanh của sức sống, của hi vọng và hòa bình. Những dòng thơ độc đáo giàu ý nghĩa tượng trưng mộc mạc chân thành.
Hàng tre xanh trồng xung quanh lăng của Bác Hồ kính yêu như muốn thay cả dân tộc canh giấc ngủ ngàn thu cho Người, thổi những làn gió mát vào trong lăng để Bác được ngủ ngon. Từ “ôi” đươc đặt đứng ở vị trí đầu câu, biểu hiện sự xúc động xen lẫn với niềm tự hào khôn xiết của tác giả. Đó chính là niềm tự hào của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, tự hào về người Cha đã làm nên lịch sử hào hùng của cả dân tộc.
Ở khổ thơ thứ hai làm chúng ta lắng đọng với những vần thơ mộc mạc chứa chan tình yêu thương.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân”
Bài thơ được xem là cuộc hành hương sau bao năm chờ đợi để được trở về bên người cha già kính yêu của dân tộc. Nếu như ở khổ thơ đầu miêu tả hình ảnh hàng tre xanh như canh giấc ngủ trong lăng Bác thì ở khổ thơ thứ hai tác giả lại bộc lộ những suy nghĩ trực tiếp về Bác với những lời thơ mộc mạc chân tình.
Mở đầu cho đoạn thơ là những hình ảnh đẹp vừa mang tính cụ thể lại mang một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Chúng ta phải nhận ra được rằng nhà thơ phải kính yêu lắm, phải quý mến Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình như thế. Ở trong hai câu thơ này, có hai mặt trời được tác giả nhắc tới, mặt trời thứ nhất tượng trưng cho mặt trời của vũ trụ thiên nhiên còn mặt trời thứ hai là mặt trời của nhân dân “mặt trời trong lăng” luôn chiếu sáng vĩnh hằng, luôn luôn đỏ mãi. Bác chính là vầng sáng hồng tỏa sáng giúp soi đường dẫn lối cho chúng ta đi, thoát khỏi kiếp nô lệ, là sức mạnh giúp cho cả dân tộc có thể chèo lái con thuyền cập tới bến bờ vinh quang, đi đến thắng lợi cuối cùng. Cho dù Bác đã ra đi nhưng đối với mọi người dân Việt Nam thì người vẫn luôn luôn sống bất tử, soi đường dẫn lối cho đồng bào đứng lên.
Ở đoạn thơ tiếp theo khi dòng người bùi ngùi bước vào lăng, tác giả xúc động mà viết:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hình ảnh dòng người khi đi vào trong lăng Bác được tác giả ví như những tràng hoa dâng Người, bảy mươi chín tràng hoa được tác giả ví như bảy mươi chín mùa xuân của người, những năm người đang sống là những năm cống hiến hết mình cho quê hương đất nước. Và Bác chính là mùa xuân, mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời của những người con của Người nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày“ đứng ở đầu câu như một quy luật tự nhiên, ngày ngày dòng người vào viếng lăng Bác không bao giờ hết, đó là quy luật của tạo hóa. Tràng hoa ở đây không chỉ là hoa thơm của thiên nhiên đất trời dâng cho Bác mà còn là những tràng hoa của niềm thương nhớ, biết ơn và ngưỡng mộ. Chính niềm thương nhớ ấy đã kết một tràng hoa đầy đủ hương và sắc để dâng lên Người.
Như chúng ta vừa nhắc ở trên về hình ảnh bảy mươi chín mùa xuân, đó là hình ảnh ẩn dụ, cho thấy cuộc đời của Bác đẹp như mùa xuân vậy, đó là bảy mươi chín năm sống và cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng của đất nước. Tràng hoa dâng lên như được thấy Bác mãi luôn sống trong lòng mọi người dân Việt Nam.
Tóm lại, chỉ với hai khổ thơ trên đã thể hiện được những suy nghĩ của nhà thơ về vị cha già của dân tộc. Tác giả đã cho chúng ta hình dung ra một cách rõ nét về hình ảnh của Người đồng thời bộc lộ niềm thương nhớ và sự thành kính sâu sắc của cả dân tộc đối với Bác.
Sinh thời, Bác Hồ đặc biệt luôn dành tình yêu thương vô vàn, ngày đêm thương nhớ về miền Nam thân yêu. Miền đất “đi trước về sau” này đối với Bác là một niềm vui, là hạnh phúc không bao giờ nguôi, và Bác luôn mong mỏi thiết tha ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà, thì người cha già kính yêu của dân tộc đã đi xa mãi, để lại biết bao niềm tiếc nuối trong lòng người dân nơi đây. Và tất cả đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài “Viếng lăng Bác” vào tháng tư năm 1976 trong lần tác giả xúc động bồi hồi ra thăm lăng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim…”
(Viếng lăng Bác – Viễn Phương)
Thân bài:
Bài thơ không chỉ riêng là tình cảm chân thành thương nhớ Bác của nhà thơ, mà là lộng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của hàng triệu đồng bào và chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm nay. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết.
Mở đầu bài thơ, tác giả đúng từ xa đã nhìn thấy lăng Bác. Chỉ cần nhìn thấy lăng thôi mà trong lòng nhà thơ đã nghẹn ngào cảm xúc. Khổ thơ đầu đã thể hiện tình cảm thân thiết, ruột thịt của mình qua câu thơ giản dị mà chân chất vô cùng: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
Câu thơ không nói gì nhiều, nhưng đọc lên sao nghe cứ rưng rưng. Nhà thơ xưng “con” và chữ “con” ở đầu dòng thơ, đầu bài thơ. Trong ngôn từ của nhân loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.
Hai tiếng “miền Nam” chưa đựng hết tình cảm của tác giả khi gợi nhớ về niềm mong mỏi của Người muốn được vào thăm đồng bào miền Nam ruột thịt: “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà”. Miền Nam là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, là thành đồng Tổ Quốc. Và giờ đây, tự đáy lòng của người con ở xa đến thăm cha, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào, niềm vui mừng khôn xiết chờ gặp lại bóng dáng thân yêu, lại vừa thật xót xa của đồng bào miền Nam để đến với Bác. Hình ảnh đầu tiên khi bắt gặp quanh lăng khiến nhà thơ bồi hồi xúc động, đã được khắc họa qua mấy câu thơ :
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Bát ngát của tre và bát ngát của sương là hình ảnh thân thuộc bao năm đã in sâu trong tiềm thức mỗi người con Việt Narn. Màu xanh của tre tưởng chừng là thường tình, nhưng nó đã in trọn dấu ấn một linh hồn, một cốt cách rất Việt Nam. Đoạn thơ là một tình cảm thương xót khi tre chịu đựng những bão táp, mưa sa của bốn ngàn năm dụng nước. Tre mang phẩm chất riêng mà chỉ dân tộc này mới có.
Tre đã làm hiện rõ hình ảnh Bác luôn sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc. Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnh hàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Dù gặp bão táp mưa sa – gặp những thăng trầm trong cuộc kháng chiến cứu nước và giữ nước, vẫn “đứng thẳng hàng”, vẫn đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục.
Tiếp tục bước tới, hòa vào dòng người xếp hàng vào thăm lăng, mạch cảm xúc của nhà thơ bỗng dạt dào, thành kính, mặt trời lại gợi lên mối hệ mới :
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
“Mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của trụ: vĩ đại, tỏa sáng, ấm áp và vĩnh hằng. “Mặt trời trong lăng” là hình ảnh Bác Hồ, Người cũng: vĩ đại, tỏa sáng, ấm áp và vĩnh hằng trong lòng dân tộc. Cái vĩnh cửu của mặt trời trên lăng là của trời đất, của tự nhiên, là sự im lặng, vô hồn, còn mặt trời trong lăng là thuộc về một sự sống của con người. Bằng lối ẩn dụ, “mặt trời … rất đỏ” làm gợi nhớ đến một trái tim, trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước thương dân của Bác. Bác chính là mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, Người dành cả một đời mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhìn dòng người vào viếng, nhà thơ liên tưởng đến vòng hoa:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một không khí thương nhớ Bác không nguôi. Nhà thơ đã không chỉ liên tưởng sâu sắc mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi thành một vòng tròn chính là tràng hoa dâng lên Bác, mà còn dùng từ tinh tế, đầy tình cảm quý trọng. Điệp từ “ngày ngày” được lặp lại hai lần cho ta thấy một thời gian vô tận, vĩnh viễn không bao giờ ngừng, như chính tấm lòng của nhân dân Việt Nam mãi mãi không nguôi nhớ thương Bác. Bác đã đi vào sự yên nghỉ đời đời, nhưng trông vẫn chỉ như một người đang ngủ, khiến nhà thơ nghẹn ngào viết nên khổ thơ cảm thương chân thực:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Khổ thơ trở nên dịu dàng, mềm mại sau mạch thơ rực rỡ ờ khổ trên, nó mở ra tầng cảm nghĩ mới. Lúc sinh thời Bác luôn gắn bó với trăng, thì giờ đây khi Bác đã đi xa vầng trăng kia vẫn bâu bạn, chung thùy vỗ về với Bác. Ở đây phần nào nhà thơ không muốn cảm nhận là giấc ngủ vĩnh viễn, nên dùng khung cảnh bình yên, êm đềm với ánh trăng gợi lên một giấc ngủ ban đêm, để vơi bớt phần nào sự thật là Bác đã mãi không còn nữa. Vẫn biết là Bác vĩnh viễn như trời xanh, mãi sống trong sự nghiệp của toàn dân, nhưng không thể nào che giấu được sự mất mát quá đỗi to lớn ấy. Chi một chữ “nhói” cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.
Nhà thơ đã rất thành công khi lựa chọn giọng điệu thơ chậm rãi, vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ khiến cho cảm xúc được co dãn, thuận lợi cho việc biểu hiện cảm xúc xót xa, tiếc nuối . Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
Kết bài:
Ba khổ thơ đầu bài thơ “Viếng lăng Bác” không chỉ đơn thuần tả lại một ngày viếng thăm lăng từ tinh sương đến trưa, đến chiều, mà còn là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác. Ba khổ thơ đầu bài thơ đầy ắp những ẩn dụ đẹp, trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Lời thơ giàu chất lãng mạn trữ tình đàm thắm hoà cùng nghê thuật luyến láy ngôn ngữ đã tạo nên sức gợi cảm sâu lẳng, làm xúc động hàng triệu trái tim.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
247033 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
76509 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
60914 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
60669 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
51848 -
46168
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
43267 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
40569 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38190
