Tại sao khi khám xét chỗ ở của công dân phải theo đúng trình tự của pháp luật quy định ?
Quảng cáo
2 câu trả lời 381
Khám chỗ ở là tìm tòi, lục soát chỗ ở của người bị khám xét để phát hiện và thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án cũng như xác chết hay người đang bị truy nã.
Chỗ ở có thể là nhà riêng, căn hộ tập thể, phòng trọ hoặc phương tiện giao thông vận tải như xe, tàu, thuyền đang được sử dụng để ở. Chỗ ở còn bao gồm cả vùng phụ cận như vườn, đất thuộc khu vực chỗ ở của người bị khám xét và công trình phụ trên đất đó.
Trước đây, việc khám chỗ ở được quy định trong Sắc lệnh số 181 ngày 20.7. 4946, sau đó được bổ sung bằng Sắc lệnh số 88/SL ngày 02.8.1949 ấn định quyền hạn và thủ tục khám nhà của Ban Tư pháp xã; Luật số 103- LS/L005 ngày 20.5.1957; sau đó được ghi nhận tại Điều 27 và 28 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1959. Tuy nhiên, các quy định về khám chỗ ở trong các văn bản này còn chưa cụ thể. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 trước đây và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định đầy đủ hơn về căn cứ, trình tự và thủ tục khám chỗ ở. Theo đó, việc khám chỗ ở chỉ được tiến hành khi có căn cứ luật định và phải có lệnh khám của người có thẩm quyền. Khi bắt đầu khám chỗ ở, Điều tra viên phải đọc và đưa cho đương sự xem lệnh khám; giải thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ; yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến
Khám chỗ ở là tìm tòi, lục soát chỗ ở của người bị khám xét để phát hiện và thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án cũng như xác chết hay người đang bị truy nã.
Chỗ ở có thể là nhà riêng, căn hộ tập thể, phòng trọ hoặc phương tiện giao thông vận tải như xe, tàu, thuyền đang được sử dụng để ở. Chỗ ở còn bao gồm cả vùng phụ cận như vườn, đất thuộc khu vực chỗ ở của người bị khám xét và công trình phụ trên đất đó.
Trước đây, việc khám chỗ ở được quy định trong Sắc lệnh số 181 ngày 20.7. 4946, sau đó được bổ sung bằng Sắc lệnh số 88/SL ngày 02.8.1949 ấn định quyền hạn và thủ tục khám nhà của Ban Tư pháp xã; Luật số 103- LS/L005 ngày 20.5.1957; sau đó được ghi nhận tại Điều 27 và 28 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1959. Tuy nhiên, các quy định về khám chỗ ở trong các văn bản này còn chưa cụ thể. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 trước đây và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định đầy đủ hơn về căn cứ, trình tự và thủ tục khám chỗ ở. Theo đó, việc khám chỗ ở chỉ được tiến hành khi có căn cứ luật định và phải có lệnh khám của người có thẩm quyền. Khi bắt đầu khám chỗ ở, Điều tra viên phải đọc và đưa cho đương sự xem lệnh khám; giải thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ; yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến
Quảng cáo