Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao

Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao gồm dàn ý và 12 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

456
  Tải tài liệu

Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao.

Bài giảng: Chí Phèo Ngữ văn lớp 11

A. Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Vài nét về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo

- Khẳng định trong truyện ngắn có một tình yêu nảy sinh giữa Chí Phèo và người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhưng không thể phủ nhận đó là nhân vật có vị tri quan trọng, it nhất, cũng coi Chí như một “con người” – Thị Nở

2. Thân bài

1. Ngoại hình

- Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hớn”

+ Ngẩn ngơ: hành động bản năng

+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người

+ Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi:

⇒ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi

2. Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người

- Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở

+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo:

+ Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”

+ Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại

+ Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một ngườ với sự lương thiện trong căn tính

⇒ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí

3. Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình

- Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng

- Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí

- Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”

- Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối

4. Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo

- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo

+ Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác

+Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí

+ Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng ⇒ đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát

⇒ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí Phèo

3. Kết bài

- Khẳng định những nét nghệ thuật làm nên hình tượng nhân vật Thị Nở

- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao trao tấm lòng trân trọng vào con người, đồng thời cũng phơi bày thực tế tàn bạo, khắc nghiệt của xã hội đẩy người nông dân vào bi kịch

B. Sơ đồ tư duy

C. Bài văn mẫu

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 1

Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.

Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc.

Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người. Câu chuyện được Nam Cao viết vào năm 1936, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là Chí Phèo.

Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo-Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.

Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả”.

Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”

“Đã thế thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị. Khác với Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng.-ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”.

Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo. Và cứ thế những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra.

Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người.

Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện.

Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.” Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”.

Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “ đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”. Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần.

Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị, Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy” . Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh.

Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”,” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992).

Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên. Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát chào hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình.

Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng mình cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.

Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ: Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”.

Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”. Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng…

Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.

Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.

Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện.

Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng.

Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ” (Phrangxoa Cope)

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 2

Là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao không hề tô vẽ những cuộc đời, những số phận của người nông dân. Những nhân vật của ông luôn là những con người bình dị, chân quê và có phần xấu xí. Trong đó có thể kể đến Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" là một người đàn bà xấu xí và dở hơi có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Vậy mà người đàn bà ấy lại có khả năng đánh thức con người lương thiện trong hình hài quỷ dữ Chí Phèo. Có lẽ, điều kì diệu ấy chắc chỉ có Thị Nở mới làm được và chắc cũng chỉ có Nam Cao mới có thể biến hóa được.

Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì xấu thật "cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn...Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành..." Với những dòng miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. "Đã thế thị lại dở hơi...Và thị lại nghèo...Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".

Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo – con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.

Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng...Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.

Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.

Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dũ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở – người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.

Với tác phẩm "Chí Phèo", người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như Thị Nở cũng khiến cho người đọc nhớ mãi. Tuy rằng xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm của người phụ nữ đã làm cảm hóa được một "con quỷ dữ", thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 3

Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.

Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo (Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178). Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn "Chí Phèo" bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân.

Bên cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị Nở.

Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phát thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn: "trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị...Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả". Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và "nghĩ bụng: Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã" thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.

Tuy chỉ là nhân vật rất phụ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn "Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo" đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, "ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn" và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành "mới thơm làm sao" chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.

Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian "giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng" (Còn có dị bản "giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng"). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của "con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời" "sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt...Nhục nhã ơi là nhục nhã". Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, "xỉa xói vào mặt con cháu gái" đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn "chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến". Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ "không ăn được thì đạp đổ", "trâu buộc ghét trâu ăn". Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : "Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm..." Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ – xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước đó.

Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại) (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng "người" ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao", tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện "vợ chồng" với Chí (Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ) cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí "Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo" đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.

Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật náy đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 4

Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như bộ mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế ban đầu" này?

Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi... lúc nào cũng cứ "vô tâm" như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).

Thì đây, sau lần "ăn nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thấy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: Vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi "ngoay ngoáy cái mông đít" ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở - Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo - tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo - chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi... Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!

Xét toàn bộ tâm trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một - đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.

Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản thiện" của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng - lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 5

Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng trước cách mạng tháng tám, nó được sáng tác để phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của xã hội lúc bấy giờ, trong câu chuyện mỗi nhân vật đều được tác giả miêu tả tinh tế, phản ánh sâu sắc được hiện thực cuộc sống. Nhân vật nổi bật truyền tải giá trị nhân vật trong tác phẩm đó là nhân vật Thị Nở.

Thi Nở là nhân vật phụ, tuy nhiên nhân vật này được tác giả Nam Cao đặt cho trọng trách khá lớn trong tác phẩm, một nhân vật truyền tải giá trị yêu thương trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện sâu sắc, mang đậm giá trị nhân văn, nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm đó.

Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngoài xấu xí, ngôn ngữ mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm đó là "xấu ma chê quỷ hờn". Với diện mạo được tác giả miêu tả "Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu". Chính ngay trong chi tiết này tác giả đã thể hiện được ngoại hình của Thị Nở với những nét bề ngoài cực xấu xí.

Người đọc thường lấy Thị Nở ra để ví " xấu như Thị Nở", chính với diện mạo đó không ai có thể mơ mộng được với bề ngoại, với ngoại hình của Thị Nở. Tuy nhiên với việc xây dựng cho nhân vật một nhiệm vụ đặc biệt, sâu sắc, hình ảnh đó đã thể hiện được sâu sắc qua những chi tiết hiện thực, hấp dẫn, mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái.

Thị Nở ngay trong hoàn cảnh xã hội đen tối này cũng là nạn nhân của sự áp bức, của sự nghèo khổ, ngay trong chính chi tiết gặp Chí Phèo, Thị Nở dường như trở thành nhân vật truyền tải giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Sự gặp gỡ của Chí Phèo phải chăng đây chính là sự sắp xếp của tác giả để nói lên hoàn cảnh của hai người, một kẻ có diện mạo bề ngoài xấu xí, một kẻ thì bị xã hội lưu manh, tha hóa.

Ngay trong đem trăng gió mát đây là thời điểm mà Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau, chính tình yêu thương làm cho hai người đến với nhau, và chi tiết bát cháo hành của Chí Phèo là chi tiết thể hiện rõ tình yêu thương, giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm. Hơn nữa chính tình yêu thương cũng giúp Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau, nó giúp cảm hóa tâm hồn của hai nhân vật trong tác phẩm.

Tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị khiến Chí mong muốn có một gia đình, bởi Chí được sinh ra ở lò gạch hoang, cũng không có gia đình, người thân, chính vì thế sự quan tâm của Thị Nở dường như làm cho Chí thức tỉnh, Chí hiểu được sự quan tâm, yêu thương của Thị Nở dành cho mình. Mỗi chi tiết miêu tả đều được Nam Cao chau chuốt để thể hiện những cảm xúc riêng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc đặc biệt tinh tế, bởi những ngôn ngữ trong sáng, mang đậm giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo xuất hiện trong tác phẩm.

Nam Cao với tài năng phản ánh giá trị hiện thực tinh tế, ông đã xâu dựng lên cho mình những nhân vật mang nhiều cảm xúc, tinh tế, truyền tải được sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện những nét riêng, mang những cảm xúc tinh tế, đậm giá trị nội dung, phản ánh sâu sắc được ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Thị Nở là nhân vật đã được tác giả truyền tải những tình yêu thương sâu sắc trong câu chuyện.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 6

Giai đoạn những năm trước Cách mạng tháng 8 là thời kỳ vô cùng đen tối trong lịch sử dân tộc, trong đó số phận của những người nông dân dưới ách thống trị của thực dân phong kiến đã trở thành đề tài được nhiều nhà văn đương thời chú ý và khai thác tập trung, triệt để. Nổi bật trong số đó, phải kể đến các tác giả như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, hoặc Kim Lân với Vợ Nhặt,... Nhưng có lẽ chưa bao giờ người ta lại thấy số phận người nông dân đau đớn, tuyệt vọng đến tột cùng như trong các tác phẩm của Nam Cao, một nhà văn có lối viết lạnh lùng, chân thực đến trần trụi của nền văn học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo là một nhân vật điển hình và gây ấn tượng mạnh mẽ trong văn đàn với số phận trái ngang và những bi kịch đớn đau tàn phá cả thể xác lẫn tâm hồn, từ chuyện bị lưu manh hóa, cho đến bị tha hóa thành con quỷ dữ, rồi cuối cùng đớn đau nhất là bi kịch bị từ chối quyền làm người.

Bi kịch của Chí Phèo có lẽ đã bắt đầu từ khi hắn mới lọt lòng mẹ, một đứa trẻ đỏ hỏn bị người ta bỏ rơi bên cái lò gạch cũ trên người chỉ quấn độc một cái váy đụp cũ, có biết bao nhiêu đáng thương và xót xa cho một kiếp người mới khởi đầu đã đầy đau thương? Hắn được đặt cho một cái tên dẫu đơn giản nhưng nhiều ý nghĩa, phải tên hắn là Chí, một cái tên hiền lành, đáng yêu biết bao. Đứa trẻ tội nghiệp ấy cũng chẳng có lấy nửa phần may mắn là được một gia đình tử tế nhận nuôi, mà bị truyền tay hết từ người này sang người khác, rồi cuối cùng lớn lên trong cái nôi nghèo khó của làng Vũ Đại. Thế rồi Chí cũng lớn lên yên ổn, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, hiền lành, chất phác, tu chí làm ăn, trở thành anh canh điền cho nhà Bá Kiến, kiếm sống bằng chính mồ hôi công sức của bản thân. Không chỉ vậy con người anh còn nổi bật với những ước mơ dẫu giản dị nhưng cao đẹp, Chí ao ước có một mái ấm hạnh phúc, chồng làm ruộng vợ dệt vải, có mảnh vườn xinh, có vài con lợn. Đó không phải là mơ ước gì quá cao xa bồng bột, nhưng có lẽ đối với cuộc đời của chàng trai hơn 20 tuổi đầu này lại là một thứ viển vông, thậm chí còn là căn nguyên dẫn đến những tột cùng bi kịch. Điều ấn tượng thứ hai về con người hiền lành, chất phác này ấy là tấm lòng tự trọng, biết giữ liêm sỉ, trước sự ve vãn mời gọi của bà ba - vợ Bá Kiến, nhưng một chàng trai đang độ tuổi thanh xuân là Chí lại chẳng hề có chút suy chuyển, Chí chỉ thấy nhục nhã. Cái lương tâm con người không cho phép anh làm chuyện bại hoại ấy, dù là về thể xác hay cả về những lợi ích tiền tài khác, trong tâm hồn anh hiện lên một triết lý rất đáng để người ta trân trọng yêu thương rằng “Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. người ta không thích cái gì người ta khinh”. Thế mà, lẽ sống lương thiện, sạch sẽ ấy lại phải chịu cái kiếp vùi dập dưới ách thống trị của chế độ tàn ác, thực dân nửa phong kiến bởi chính cái lòng lương thiện của mình.

Từ Chí biến thành Chí Phèo, cũng chỉ bởi cái xấu xa đê tiện của lũ người thống trị, một người đàn bà đa dâm, lăng loàn, một người đàn ông sợ vợ, bất lực là Bá Kiến chẳng biết trút cái sự ghen tức, phẫn nộ của mình vào đâu ngoại trừ anh canh điền tội nghiệp. Và thế là Chí nghiễm nhiên được ban cho cái tội ăn cắp, ăn trộm, rồi bị tống thẳng vào tù 7, 8 năm trời, dở sống dở chết với lũ quan sai. Nhưng nó đâu phải là một cái nhà tù bình thường cho người ta cơ hội được sống, được cải tạo, mặc dù Chí cũng chẳng làm gì sai. Mà cái nhà tù ấy đã đày đọa, nhào nặn biến con người ta thành một kẻ ghê gớm, bặm trợn, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người từ biết tự trọng, liên sỉ thành một kẻ lưu manh, suy đồi về đạo đức, cũng chẳng thèm biết đến tự trọng là gì nữa. Còn đâu một chàng trai độ hai mươi tuổi sung sức, trẻ trung mà giờ đây người ta chỉ thấy ái ngại, khiếp sợ trước một con người có dáng vẻ khác thường, khác người “trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Người ta đã không còn nhận ra anh canh điền hiền lành, chất phác ngày xưa nữa, mà trước mắt chỉ thấy một kẻ giống đặc như lưu manh, và rồi người ta lại càng chắc chắn điều đó hơn khi chứng kiến hắn uống rượu ăn thịt chó ở ngoài chợ suốt từ trưa tới chiều. Đến lúc đã say khướt thì chân nam đá chân chiêu mò đến nhà Bá Kiến vừa đi vừa chửi, không ai dám tiếp hắn hay chửi lại, thành thử ra người ta thấy xuất hiện một hình ảnh bi hài, người chó xướng ca khi “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Rồi người ta còn bất ngờ hơn khi thấy thằng say rượu ấy sống chết lăn vào đánh nhau với Lý Cường con trai của Bá Kiến, đánh không lại thì nằm lăn ra ăn vạ, và ăn vạ một cách vô cùng cực đoan ghê rợn. Chí Phèo đập nát vỏ chai rồi tự rạch mặt mình, máu me chảy bê bết, sẵn sàng lên giọng thách thức với Bá Kiến “Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đây thôi”. Như thế có thể thấy rõ rằng, Chí Phèo đã hoàn toàn bị tha hóa về nhân cách trở thành một kẻ lưu manh chính hiệu, cực đoan và ghê gớm

Thế nhưng, những tưởng sự liều mạng và ngoại hình kinh khủng của Chí sẽ khiến Bá Kiến sợ, nhưng trái lại nó lại trở thành món lợi cho kẻ gian xảo lọc lõi như Bá kiến, bởi vốn dĩ ông ta đã quá hiểu và quá quen với những kẻ như Chí Phèo. Sự u mê, ít học của Chí đã khiến hắn trượt dài trên con đường tha hóa nhân cách vào mức đường không thể vãn hồi. Bá kiến chỉ bằng vài lời ngon ngọt, êm tai, thêm vài đồng tiền đã có thể dỗ dành Chí Phèo trở thành tay sai cho mình, thay mình đâm thuê chém mướn, trở thành con qủy dữ của làng Vũ Đại. Còn đắng cay thuê Chí Phèo lại không hề nhận ra mình đang tiếp tay cho kẻ thù, đang tiếp tay cho cái ác, mà vẫn ngày ngày bán lẻ nhân cách để lấy vài đồng bạc uống rượu triền miên hơn chục năm trời. Để rồi trong tầm mắt của làng Vũ Đại, Chí đã trở thành một con gì ấy rất lạ, không phải một con người có nhân tính mà là một gương mặt “vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”. Đọc mà thấy xót xa cho một kiếp người chẳng được làm người, mà lại được xem như một “con vật lạ”, từ một kẻ vốn chỉ ham rượu chè đến một kẻ triền miên trong những cơn say dài, “cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận” Suốt 15 năm, nhưng đời người có được bao nhiêu cái 15 năm ấy, Chí Phèo đang tự tay chôn vùi cuộc đời mình với sự ủng hộ tuyệt đối của bè lũ thống trị phong kiến tay sai, thật xót xa và đau đớn. Rượu đã dẫn lối cho Chí lao vào những cuộc thanh trừng mà Bá Kiến chỉ đạo, biết “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!”, rồi riết hắn nghĩ đó chính là cuộc đời mình. Nhưng người ta vẫn có thể nhận ra rằng, Chí Phèo dẫu có tha hóa, lưu manh hóa thì hắn vẫn khao khát được giao tiếp lắm, nhưng cái cách giao tiếp của hắn làm người ta ngày càng sợ và xa lánh. Hắn chửi trời, đất, chửi tất cả và “chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo?”, để khiến hắn đớn đau, lay lắt trên đời hơn 40 năm ròng rã. Cuối cùng thì chẳng ai thèm quan tâm đến cái thằng chuyên chửi ấy, người ta chỉ cốt sao tránh cho thật xa, Chí Phèo phải nhận bi kịch thất bại trong giao tiếp, bị từ chối quyền làm người trong cô độc và tuyệt vọng.

Có lẽ bi kịch của Chí chỉ dừng lại ở đấy thôi, nhưng không cái xã hội thối nát này nó không dồn con người ta vào đường cùng thì có lẽ vẫn không chịu buông tha. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở, chính là bước ngoặt lớn nhất trong đời Chí, kể từ cái ngày hắn bị tống vào tù. Người đàn bà xấu đau xấu đớn ấy, lại đem đến cho Chí những nhận thức sáng sủa về thế giới xung quanh, đó là tiếng chim hót ríu rít, tiếng người nói chuyện cười đùa, và cả thứ ánh sáng mặt trời qua vách nứa mà có lẽ gần 20 năm qua hắn chẳng hề ngó ngàng tới. Sau khi nhận thức được sự sống ngoài kia, hắn mới nhìn lại cái thân thể yếu ớt, rã rời của mình, hắn chợt nhận ra mình đã bước sang hẳn bên kia con dốc của cuộc đời trong vô thức. Rồi Chí Phèo cũng dường như dự đoán được tuổi già ốm yếu, bệnh tật và sự cô độc. Hắn còn sợ cái đói cái rét hơn cả sự cô đơn, bởi vốn dĩ hắn đã cô đơn lắm rồi. Những lời tình tứ, ân cần và bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở đã làm bùng cháy dậy những khao khát hạnh phúc, khao khát được quay về cuộc đời lương thiện, làm sống lại những mơ ước thời trai trẻ “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!(...). Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện…”.. Sau ngần ấy năm bê tha, cuối cùng cái tâm hồn thiện lương, đã quay trở lại với Chí, hắn khóc vì xúc động trước cái tình người của Thị Nở, rồi sau đó là tình yêu với thị, và những mong ước có lẽ sẽ trở thành hiện thực. Và Thị Nở sẽ trở thành cầu nối dẫn hắn về với cuộc sống bình thường, được hưởng hạnh phúc và hắn lại như xưa, sống chan hòa trong vòng tay yêu thương của làng Vũ Đại.

Nhưng trời nào có chiều lòng người, chỉ một câu nói chua ngoa gay gắt của bà cô, người đàn bà ế chỏng trơ, thấy cháu gái có chồng thì liền không cam lòng, và sự dở hơi của Thị Nở đã hoàn toàn chặt đứt mọi hy vọng của Chí, đẩy hắn vào vực sâu không lối thoát. Khiến hắn nhận ra sự thật nghiệt ngã rằng xã hội và những định kiến sẽ chẳng bao giờ cho hắn làm lại từ đầu, không bao giờ. Việc Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát có thể xem là một cái kết hợp lý nhất cho những bi kịch chất chồng của nhân vật. Là minh chứng cho sự quay lại của tính người, bản chất lương thiện bất diệt trong tâm hồn Chí Phèo, đồng thời cũng là nhận thức của Chí về bộ mặt của những kẻ cầm quyền, mà chỉ khi tiêu diệt chúng thì bi kịch mới kết thúc triệt để.

Chí Phèo của Nam Cao là một tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất cho nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Phản ánh sâu sắc số phận cùng khổ của người nông dân trong xã hội cũ và sự tàn ác, vô nhân đạo của giai cấp thống trị đã đẩy con người ta vào bước đường tha hóa, bi kịch đến tột cùng. Bên cạnh đó một giá trị không kém phần quan trọng của tác phẩm đó chính là bộc lộ được vẻ đẹp bất diệt của tấm lòng lương thiện, tình người còn ẩn sâu trong tâm hồn nhân vật, dẫu rằng nó có bị giày vò, chà đạp bởi đủ thứ bất công.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 7

Để chọn một tác phẩm hay nhất phản ánh được tận cùng thân phận của người nông dân trong xã hội cũ thì không thể không nhắc đến tác phẩm Chí Phèo. Mới đầu người ta nghĩ nhân vật anh Pha trong “Bức đường cùng” của Nguyễn Công Hoan bị sưu thuế đè nặng và đẩy vào tình cảnh nghèo đói, không lối thoát. Rồi cho đến nhân vật chị Dậu người ta lại thấy tình cảnh người nông dân khổ sở thêm mức nữa bởi chị phải bán chó bán con để đóng sưu. Tưởng chừng không còn gì để khổ hơn thì Chí Phèo trong trang sách của Nam Cao ngật ngưỡng bước ra thì người ta mới cảm nhận thấy được đây mới là sự tận cùng của cái khổ. Chí Phèo bán cả nhân hình lẫn nhân tính của mình để nhận được cái kết là trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhân vật Chí Phèo chí là hiện thân đầy đủ nhất về nỗi khổ của người nông dân trong xã hội và khiến cho tác phẩm “Chí Phèo” vẫn còn sống đến tận bây giờ.

Có thể thấy được nhân vật Chí Phèo hiện lên với một nỗi bi kịch. Đó chính là bi kịch của một nông dân cùng khổ đã bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, Chí Phèo đã bị cự tuyệt quyền làm người. Nói một cách dễ hiểu thì số phận bi thảm của một con người muốn được làm người – đây là quyền ai cũng có cả thế nhưng với Chí Phèo lại không được như thế. Nhà văn Nam Cao thật tài tình khi đã viết về tấn bi kịch của nhân vật vô cùng sắc sảo. Thêm với đó thì luôn biết biến hóa lúc kể, lúc tả, có lúc thì triết lí thì thấm thía vô cùng trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật. Đồng thời cũng đã lại làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỷ nay.

Nhà văn Nam Cao dường như không nói về sưu thuế đã khiến con người có được những khám phá riêng về chính số phần của người lao động. Người lao động bị chà đạp và đồng thời họ cũng có một cái nhìn thật mới mẻ và cũng thật độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức, bóc lột đến tàn tệ trong xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến.

Xây dựng lên nhân vật Chí Phèo bất hạnh chính ngay từ khi sơ sinh theo lời kể của nhà văn Nam Cao “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Thế rồi có anh thả ống lươn thấy và đem cho một người đàn bà góa mù nuôi, sau đó Chí Phèo cũng lại bị đem bán cho bác phó cối. Chí Phèo – một anh nông dân lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, lại còn nghèo đến mức không một mái lều che thân cũng chẳng có lấy một tấc đất cắm dùi. Chí Phèo sống cứ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ cho đến năm 20 tuổi thì nhân vật Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.

Nam Cao nói về trang đời thơ ấu vô cùng bất hạnh của Chí Phèo đó chính là khoảng thời gian 20 năm trời đắng cay. Chính tấn bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ câu chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà bà Ba lại cứ “hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí Phèo là người chứ không phải là gỗ đá, nhưng hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ. Thế rồi xuất phát chỉ một chuyện ghen tuông không đau thôi mà Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí Phèo giải lên huyện, đồng thời cũng lại bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Khi Chí Phèo ở nhà tù thực dân đã biến anh từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, trở thành một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.

Chí Phèo đi tù biệt tăm và rồi khi trở về thì trông ngoại hình của Chí đã khác hẳn. Câu văn miêu tả “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy”... Tất cả đó là một hình ảnh của Chí Phèo, đã vậy Chí lại chuyên rạch mặt ăn vạ. Ra tù phải đến nhà Bá Kiến để hỏi tội và Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược. Thế nhưng chỉ một bữa rượu thịt, một vài câu mơn trớn thêm với đó là một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho Chí Phèo vô cùng hả hê và quên hết Bá Kiến đã đẩy mình vào tình trạng như thế.

Chưa hết, Bá Kiến hiểu được “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ 2 sợ kẻ cố cùng liều thân” cho nên đã ngon ngọt nịnh Chí Phèo trở thành đầy tớ chân tay mới của Bá Kiến. Chí Phèo đã bán mình cho quỷ dữ cũng chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm khiến ai ai cũng phải sợ. Chí như cứ triền miên, chìm ngập vào trong vũng bùn vô cùng tăm tối và tội lỗi với hơi rượu. Rượu đã làm cho Chí Phèo mất hết ý niệm về thời gian, tuổi tác, Chí không nhớ một điều gì nữa cả. Hình ảnh Chí Phèo hiện lên là một con vật lạ, trên mắt có đầy những vết rạch mặt dọc ngang thật ghê sợ. Chí Phèo đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu, cứ những cơn say của Chí như cứ từ cơn say này sang cơn say khác. Chí đã bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh hóa bao nhiêu tội lỗi. “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.

Chí Phèo lúc này đây cũng đã bị cả xã hội ruồng bỏ, ngay cả cái thẻ có biên tên tuổi của Chí Phèo cũng không có trong sổ làng. Thế rồi chính người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán đã rất lâu năm không về làng. Thực sự giờ đây mỗi khi hắn xuất hiện thì cả dân làng đều sợ hắn, thậm chí là còn tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua. Chí Phèo chửi thì ai cũng nghĩ chắc “nó chừa mình ra”, tiếng chửi như xuất hiện ngay đầu câu chuyện khiến nó cứ ám ảnh về một con người nhưng lại bị cả xã hội không công nhận. Người ta giao tiếp với nhau bằng tiếng nói còn đối với Chí Phèo thì lại dùng tiếng chửi. Thế nhưng cũng không ai để ý đến Chí nữa, Chí Phèo như đã bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.

Thông qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến đồng thời cũng có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc. Trong chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến cũng có rất nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào chính con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để tồn tại. Qua tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn Nam Cao đã gửi gắm một điều đó chính là chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, nhẫn tâm, độc ác và áp bức bóc lột tàn tệ dân lành thì chừng đó chắc chắn sẽ còn người lao động lương thiện, hiền lành bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi. Chính cái xã hội đó cũng đã lấy mất đi linh hồn của Chí Phèo, hủy diệt nhân tính, nhân hình của một anh nông dân chất phác. Nhà văn Nam Cao cũng đã cho thấy được quy luật bạo tàn, ghê sợ trong xã hội cũ.

Và rồi cho đến khi Chí Phèo gặp Thị Nở. Thị Nở được miêu tả là một người xấu đến ma chê quỷ hờn. Sau cuộc làm tình mang tính bản năng của Chí Phèo thì với sự chăm sóc cẩn thận của Thị Nở Chí Phèo lúc này cũng đã khiến cho Chí Phèo thay đổi. Sáng hôm sau, lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh dậy trong cơn say triền miên tưởng không dứt. Chí Phèo bị cảm và Thị Nở đã chăm sóc cũng như nấu cho Chí một bát cháo hành. Cuộc đời Chí muốn ăn thì phải cướp, giành lấy chứ chưa bao giờ được ăn và lại được người khác mang cho như này. Chí Phèo – một con quỷ dữ của làng Vũ Đại ai ai cũng sợ hắn và duy chỉ có thị Nở mới nhận ra Chí Phèo sao mà hiền!

Chí Phèo tỉnh trong cơn say triền miên thì có những tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói có cả tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả... Tất cả những điều này đó chính là những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy rõ nhất, đó chính là tiếng của nhịp sống mà lâu nay Chí đã bỏ quên. Trong lòng Chí Phèo như cũng vô cùng buồn và mong muốn có thể làm hòa với mọi người, muốn trở thành người lương thiện. Bất giác Chí như nhớ về ước mơ bình dị bấy đó là ước mơ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Chí nhớ lắm và Chí lại lo sợ về cuộc đời, Thị Nở chính là người đã khiến cho Chí nhận ra được cuộc sống ý nghĩa.

Bằng con mắt tinh tế, thấu hiểu nhân vật nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện. Ở Chí thì cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi và được sự chăm sóc của thị Nở thì nay đã hồi sinh trở về. Thực sự đó cũng chính là một cái nhìn vô cùng sâu sắc cùng với tấm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn đối với những kiếp người lương thiện mà bị xã hội xa lánh.

Khi mà linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra thì bỗng nhiên Chí Phèo bỗng thấy thèm lương thiện thế những định kiến xã hội – bà cô thị Nở cấm đoán đã khiến cho Chí không thể hoàn lương. Ở Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng và muốn “đâm chết con đĩ Nở kia, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Chí lại tìm đến rượu, và khác với những cơn say khác Chí rất tỉnh táo khi nhận ra được kẻ thù của mình chính là Bá Kiến. Chí xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện bằng cách đâm chết Bá Kiến sau đó cũng tự kết liễu đời mình. Khi ý thức về nhân phẩm đã trở về thì Chí Phèo không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ và không thể chấp nhận được kiếp sống như thú vật được nữa. Cái chết của Chí Phèo rất bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình. Anh chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, ám ảnh vì anh chết ngay trên ngưỡng cửa về cuộc đời.

Nhân vật Chí Phèo là một nhân vật, một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình. Ở nhân vật cũng đã lên án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm thú vật, xã hội đó cũng đã cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người để trở thành quỷ dữ. Câu nói của Chí Phèo kết thúc chuyện thực sự ám ảnh, nó giống như một lời tố cáo đanh thép của nhà văn trước xã hội đầy bất công đã đẩy người nông dân vào mức đường cùng không lối thoát. “Ai cho tao lương thiện?”

Với tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn đã viết lên một câu chuyện như vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, đồng thời cũng lại mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật độc đáo. Tất cả từ hình thức đến nội dung của truyện đã đạt đến độ độc đáo, xứng đáng được coi là một kiệt tác văn học của dòng văn học hiện thực phê phán.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 8

Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nổi lên hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.

Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.

Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khó đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khó và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến số nhọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.

Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỷ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.

Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ.

Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.

Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.

Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự’ ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn".

Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.

Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ’ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỷ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và hợp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đến nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.

Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thể hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.

Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan với bản thân những người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lưng vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuổi, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hơn?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Kết thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.

Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 9

Chí Phèo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong dòng văn học hiện thực Việt Nam đầu thế kỉ XX. Qua Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên bức tranh ám ảnh về vùng quê nghèo Việt Nam trước Cách mạng, nơi mà những con người hiền lành bị đẩy lui vào tới bước đường cùng mà tha hóa, trở thành những kẻ lưu manh. Và Chí Phèo được Nam Cao dựng lên là một con người như thế! Hắn trở thành một hình tượng điển hình cho lớp người nông dân nghèo đói bị bức áp vào đường trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng.

Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, là kiệt tác nói của dòng văn học hiện thực Việt Nam. Nam Cao đã vẽ lên bức tranh làng quê Việt trước Cách mạng tháng Tám, nơi mà nghèo đói và những luật lệ áp chế con người, biến con người trở thành những kẻ khốn nạn, đẩy con người vào cảnh khốn cùng. Chí Phèo được sinh ra và lớn lên giữa một xã hội như thế, một xã hội mà định kiến có thể giết chết một con người và luật lệ thì được dựng lên trong tay những kẻ có quyền. Chí Phèo đã sống và bị những định kiến, luật lệ ấy áp tới đường cùng, trên con đường ấy, hắn đã tha hóa, biến thành một "con quỷ" sống của làng Vũ Đại để rồi đến khi chết, hắn vãn chỉ ở bên ngưỡng cửa được trở thành người lương thiện.

Chắc hẳn không một tác phẩm nào trong nền văn học Việt lại có một cách vào truyện đặc sắc như Chí Phèo của Nam Cao. Mở đầu câu chuyện không phải là những lời hoa mĩ, đẹp đẽ mà lại là tiếng chửi vang vọng qua từng câu trong trang sách. Tiếng chửi ấy mở ra hoàn cảnh xuất hiện của hình tượng Chí Phèo – một con người "từng lương thiện".

Chí Phèo không xuất hiện như Từ Hải rằng "Râu hùm, hàm én, mày ngài", không có một lời miêu tả hình dáng, bởi hắn xuất hiện bằng tiếng chửi trong cơn say "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi". Sự xuất hiện của hắn thật đặc biệt! Chẳng cần một lời miêu tả hình dáng, chúng ta vẫn như thấy hình ảnh của một tên say rượu, lảo đảo cất bước và cất tiếng chửi giữa xóm làng.

Thế nhưng, không như những người say rượu bình thường hay gây sự chửi bới vô cớ khác, Chí Phèo lại chửi theo một cách hợp lý mà hợp lý đến bất thường. Tiếng chửi ấy nghe có vẻ vô lý thế nhưng lại khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng logic, vô cùng đúng đắn với một tên say rượu đang ngất ngưởng cãi nhau với đời. Tiếng chửi của Chí bắt đầu từ trời, cái chung nhất của thế gian, nhưng "Trời có của riêng nhà nào?", thế là hắn "chửi đời", nhưng "đời là tất cả nhưng chẳng là ai". Rồi hắn lại chửi cả làng Vũ Đại, rồi chửi đứa không chửi nhau với hắn, chửi đứa đẻ ra hắn. Cái chửi của Chí Phèo cứ liên tiếp thay đổi, tưởng như vô cớ mà ta lại thấy hợp lý vô cùng. Hắn chửi từ cái chung đến cái riêng, từ cái vô cùng đến cái cụ thể. Chửi vậy mới đúng là một tên say rượu đang khật khưỡng bước đi, mong được một lời đáp trả từ xã hội, dù chỉ là một tiếng chửi, vậy mà chẳng ai quan tâm đến "không ai lên tiếng cả", chỉ bởi hắn là một "con quỷ" khiến ai cũng khiếp sợ.

Nam Cao rất thành công khi khắc họa hình ảnh Chí Phèo xuất hiện chỉ bằng một vài tiếng chửi. Nhưng chỉ thông qua đó thôi, chúng ta cũng mường tượng ra một kẻ lưu manh, khố rách áo ôm, không người thân thích, một kẻ luôn triền miên trong những cơn say mà cả xã hội xa lánh trong sợ hãi. Chỉ những kẻ như vậy mới có thể chửi đời, chửi trời, chửi cả làng mà chẳng ai hề để ý để tâm. Nhưng nhìn sâu vào trong ta mới thấy, có lẽ tiếng chửi là phương tiện giao tiếp cuối cùng của Chí với cuộc đời để hắn nhận ra là hắn đang được sống giữa xã hội chứ không phải đơn độc một mình. Thế nhưng, chẳng ai thèm đếm xỉa đến hắn, cô lập hắn vào giữa cái xã hội thu nhỏ, để hắn trở nên lạc lõng, cô đơn.

Chí Phèo đã xuất hiện đặc sắc như thế khiến cho chúng ta tò mò tự hỏi, tại sao Chí lại là người như thế? Phải chăng từ khi sinh ra Chí đã trở thành một kẻ nghiện rượu, một tên lưu manh như thế? Hay còn vì sao, vì lý do gì đã đẩy hắn đến bước đường cùng như thế?

Chí Phèo – hắn đã từng là một con người lương thiện. Có ai từng nghĩ một kẻ như Chí, một kẻ luôn "triền miên say", luôn rạch mặt để ăn vạ, luôn chửi bới xóm làng đã từng là một con người lương thiện hay chưa? Vâng, đúng là thế, đúng là Chí Phèo cũng đã từng là một người nông dân hiền lành, lương thiện như bao người nông dân nghèo ở cái làng Vũ Đại này.

Chí Phèo mồ côi cha mẹ, chẳng ai biết ai đã sinh ra hắn "Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết", bởi hắn được vứt bên một cái lò gạch cũ và được một người đi thả ống lươn nhặt được "trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không". Hắn không cha không mẹ, không nhà cửa đất đai nhưng lại được lớn lên giữa vòng tay yêu thương, sự đùm bọc của xóm làng. Những điều ấy đã hun đúc lên một Chí Phèo cũng lương thiện, hiền lành với bao phẩm chất đạo đức chất phác như những người dân cày khác. Hắn lớn lên, cũng chăm chỉ làm lụng, kiếm sống nuôi thân. Hắn đi làm thuê cho Bá Kiến kiếm những đồng tiền bằng mồ hôi, bằng lao động chân tay, bằng chính sức lực của hắn. Hắn cũng như bao người trai làng hiền lành khác, có những mơ ước thật giản dị, nhỏ nhoi, được nên vợ nên chồng với một người con gái để xây lên "một gia đình nho nhỏ" mà "chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải". Ước mơ ấy đơn giản làm sao, nhỏ bé và chính đáng làm sao. Thế nhưng, những ước mơ cỏn con ấy đã biến thành mây khói khi hắn bị đẩy vào chốn lao tù.

Là một người lương thiện lại chất phác hiền lành, hắn cũng có lòng tự trọng tự tôn như những thằng đàn ông con trai khác. Bởi vậy, lúc bị bà Ba của Bá Kiến gọi tới "bóp chân", hắn đã làm thật miễn cưỡng, "hắn thấy nhục hơn là thích". Hắn có lòng tự trọng, có ý thức về nhân phẩm của chính mình, có lẽ chính vì vậy, khi bị bắt làm cái việc không chính đáng ấy, "hắn vừa làm vừa run".

Phải, Chí Phèo vốn đã từng là một người nông dân lương thiện như bao người nông dân khác trong xã hội đương thời ấy, trong cái làng Vũ Đại ấy. Hắn có ước mơ, có lòng tự trọng, có sự ý thức về nhân phẩm, tự trọng của mình, hắn biết làm việc chăm chỉ làm lụng bằng đôi bàn tay, bằng mồ hôi, sức lao động của mình để nuôi thân và hơn hết hắn có sự lương thiện mà bất cứ con người nào từ khi lọt lòng vẫn luôn có.

Vậy mà, con người ấy đã biến đổi hẳn thành một kẻ khác từ khi phải vào tù. Hắn ra tù và trở thành một "con quỷ" khiến ai cũng phải kinh sợ, phải nín nhịn trước hắn. Ra tù, Chí Phèo thay đổi cả nhân hình, nhân tính. Liệu có ai nghĩ rằng đã từng có một Chí Phèo hiền lành, chân chất ngày xưa không?

Vậy tại sao Chí Phèo lại phải đi tù? Câu trả lời ấy đã được Nam Cao viết rõ trong tác phẩm, Chí Phèo bị Bá Kiến ghen nên đẩy vào tù. Bá Kiến ghen ghét chàng lực điền cao lớn, khỏe mạnh, thế nên đã dựng chuyện mà đẩy hắn vào tù. Và cuộc sống trong chốn nhà tù thực dân đã biến hắn từ một chàng trai chăm chỉ làm lụng, hiền lành thành một kẻ nghiện rượu, một con quỷ khiến ai cũng phải kinh sợ.

Chí Phèo ra tù, chẳng còn như xưa, hắn biến đổi cả nhân hình, nhân tính của con người. Hắn chẳng còn là chàng trai chất phác như xưa nữa mà triệt để thay đổi ngoại hình "Trông đặc như thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết". Không chỉ có thế, trang phục của hắn cũng toát lên sự khiếp sợ đối với người đối diện, nào là "quần nái đen với áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!". Chí Phèo đã thực sự biến đổi về ngoại hình rồi, mất đi cái nhân hình trước kia rồi. Một anh canh điền hiền lành, chất phác giờ đây lại trông "đặc như thằng săng đá" khiến cho tất thảy cả cái làng Vũ Đại "mới đầu chẳng biết là ai". Ai gặp hắn cũng dường như phải ngao ngán bởi sự thay đổi đến mức khiến người ta phải khiếp sợ của Chí Phèo.

Thế nhưng, cái nhà tù đương thời ấy không chỉ biến đổi hình dạng của Chí, biến hắn trở nên gớm ghiếc, kinh hoàng trong mắt những người nông dân nghèo mà còn thay đổi hắn triệt để về nhân tính, biến hắn trở thành một "con quỷ" của làng Vũ Đại. Xưa kia, Chí chăm chỉ làm ăn, kiếm sống bằng sức lao động bằng đôi tay của mình thì giờ đây, hắn chỉ chìm đặc trong những cơn say lướt khướt "hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt trưa đến xế chiều. Rồi say khướt …", và mỗi khi say, hắn lại cất tiếng chửi và hành cái nghề "ăn vạ" của mình. Hắn trở thành một tên lưu manh chính hiệu và "sống bằng dọa nạt hay cướp giật", bởi hắn đâu còn mục đích gì để sống hiền lành như xưa, bởi cái nhà tù ấy đã cướp đi hay đã ghìm thật sâu vào bùn đen cái bản tính hiền lành ngày nào của hắn mất rồi.

Đến sau này, sau một lần ăn vạ Bá Kiến không thành và được Bá Kiến dỗ ngọt, Chí Phèo còn trở thành tay sai cho cụ Bá. Hắn cướp giật, đốt nhà, phá phách làng xóm, đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến. Và thế là cái thằng Chí Phèo kia lại càng khiến người dân làng Vũ Đại thêm xa lánh hắn. Bởi hắn đâu còn là một con người nữa, hắn đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ mất rồi! Hắn đánh mất cả nhân hình nhân tính của mình mất rồi.

Có thể nói Chí Phèo chính là một nạn nhân trực tiếp của nhà tù thực dân, của xã hội đương thời, của bọn cường hào ác bá. Hắn là điển hình cho hình ảnh một người nông dân chân chất bị dồn ép tới đường cùng mà trở nên xấu xa, mất dần đi cái tình lương thiện bản chất con người mình. Nếu như xã hội không có những định kiến, nếu như xã hội công bằng hơn, đẹp tốt hơn thì hẳn đã chẳng có một Chí Phèo tha hóa đến mức như thế!

Phải nói rằng Nam Cao đã thực sự thành công khi xây dựng lên hình tượng nhân vật điển hình Chí Phèo luôn triền miên say và làm nghề ăn vạ. Để đến tận hôm nay, thế hệ chúng ta vẫn luôn mãi ấn tượng với hình ảnh này, để ai mỗi khi nhắc tới sự ăn vạ, lại nghĩ ngay ra hình ảnh một Chí Phèo chễm chệ với thói ăn vạ của mình.

Những tưởng cuộc đời của Chí đã dừng ở đó, dừng lại ngay khi Chí tha hóa mà trở thành một kẻ chuyên đi cướp giật của xóm làng thì không, Nam Cao đã vô cùng nhân đạo khi cho Chí một tia ánh sáng le lói để Chí có thể làm lại cuộc đời của mình. Ánh sáng đó chính là Thị Nở. Cuộc gặp gỡ định mệnh của Chí Phèo và Thị Nở đã khiến hắn thức tỉnh. Mối tình của hai con người ấy quả là hấp dẫn đặc biệt, bởi "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", thế nhưng nó lại là một tư tưởng nhân đạo cực kì sâu sắc mà Nam Cao lồng ghép vào tác phẩm để nâng nó lên một tầm vóc mới.

Chí Phèo đến với người tình của mình thật đúng với cái tên của hắn, thật hết sức … Chí Phèo. Bởi Thị Nở vốn là người phụ nữ "xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng", đã ngoài ba mươi tuổi nhưng vì xấu và ngẩn ngơ nên chẳng ai thèm hỏi thị làm vợ. Trong một lần Thị đi kiếm nước ngoài bờ sông rồi ngủ quên, Chí Phèo đã gặp Thị trong lúc uống say trở về nhà và cả hai đã ăn nằm với nhau. Nếu như ban đầu, Thị mới chỉ khơi lên ở Chí cái bản năng đàn ông thì sau, cái sự chăm sóc dịu dàng mà ân tình của người đàn bà ấy đã khơi lên trong Chí cái bản tình lương thiện đã bị vùi sâu dưới tận đáy. Linh hồn Chí như được thức tỉnh, trở lại thành một con người chứ không phải là một con quỷ nữa.

Bởi lần đầu tiên, sáng hôm ấy, Chí tỉnh dậy mà không say. Hắn nhận ra "trời đã sáng từ lâu", nhân ra những thanh âm quen thuộc của cuộc sống thường ngày "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy ngày nào chả có."Lần đầu tiên sau bao năm ra tù, Chí Phèo mới được nghe thấy những thanh âm quen thuộc ấy, những tiếng cười nói, tiếng gõ mái chèo của cuộc sống lao động xung quanh, hôm nào chả có "nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…". Hắn chợt "bâng khuâng" và thầy "lòng mơ hồ buồn". Cuộc gặp gỡ với Thị Nở như là tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí, nó đã khơi gợi lên trong lòng Chí bao điều, cho Chí nhìn thấy rõ cuộc đời của mình. Hắn chợt thấy rằng ngày xưa "cái gì rất xa xôi", nhắc cho hắn rằng hắn cũng từng mơ ước về một cuộc sống êm đềm như thế "một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Nhưng cái mơ ước ấy đã xa xôi quá đỗi, giờ đây, hắn nhận ra cái bi kịch của cuộc đời mình, cái thực tại đáng buồn khi "tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc". Và cái tương lai ở phía kia còn đáng buồn hơn "Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời", vậy mà chẳng có ai bầu bạn, chẳng có gì để nuôi thân, và sớm thôi "hắn đã như trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc". Bao năm nay, Chí chưa từng một ngày tỉnh táo để nhận ra những cái đó, bởi hắn "bao giờ cũng say", thì hôm nay lần đầu tiên trong đời, hắn đủ tỉnh táo mà ý thức được số phận của mình.

Nếu như trước kia, Chí Phèo sống trong vô thức, thì hôm nay, Chí Phèo đã đủ tỉnh táo mà nhận thức được, bởi vậy hắn có những cảm xúc rất đời, rất thường như bao người khác là cái sợ về tuổi già và sự ốm đau, sự cô độc. Ngày trước, hắn là một con quỷ "sống bằng dọa nạt và cướp giật" thì giờ đây trong thâm tâm hắn bừng lên những cảm xúc đời thường, những mơ ước đời thường, phải chăng, sự lương thiện trong hắn đang trở về với hắn?

Và khi thấy Thị Nở bưng bát cháo còn bốc hơi tới trước mặt, hắn "rất ngạc nhiên" và thực sự xúc động "bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". Hắn nhận bát cháo từ tay Thị nở và bỗng nhận ra rằng "cháo hành ăn rất ngon". Bởi bát cháo ấy không chỉ được nấu bằng gạo bằng hành mà còn được nấu bởi hương vị của tình yêu tình người, của yêu thương chân thực và hạnh phúc giản dị, và tất cả những cái đó lần đầu tiên Chí Phèo được cảm nhận. Bởi vậy mà "hắn thấy mắt hình như ươn ướt", một nỗi xúc động nghẹn ngào. Ai có thể nhận ra đó là cái thằng Chí Phèo vẫn thường rạch mặt ăn vạ, đập đầu giờ đây lại có thể hiền lành đến như thế? Hắn đã thực trở lại là anh canh điền lương thiện ngày nào, anh nông dân với ước mơ giản dị mà khiêm nhường ngày nào. Giọt nước mắt còn thấp thoáng trên mắt Chí có lẽ chính là giọt nước mắt hạnh phúc mà người ta vẫn hay nói. Giọt nước mắt ấy đời thường vô cùng, con người vô cùng.

Như vậy, có thể thấy, chính lòng yêu thương, tình người chân thật đã kéo Chí Phèo trở lại cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động – cái bản chất đã bị vùi lấp tận sâu bởi bọn cường hào và xã hội thực dân. Có thể nói, linh hồn của người nông dân nghèo Chí Phèo đã bị cướp đi bởi bầy lũ cường hào, thực dân trong xã hội, chúng muốn biến hắn trở thành cái công cụ để chúng sai khiến. Thế nhưng, giờ đây, Chí đã thức tỉnh thực sự rồi, cái lương thiện ẩn sâu tận con người hắn đã trở về rồi, và hắn lại khao khát một lần nữa được trở thành một con người như xưa. Tình yêu đã thức tỉnh hắn, "hắn thèm lương thiện", hắn muốn được quay lại hòa nhập với mọi người. Hắn đã mơ tưởng đến cuộc sống mà chính Thị là người sẽ mở đường cho hắn và hắn sẽ được nhận vào "cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Chí Phèo đang mong chờ ngày được trở lại, hồi hộp trong hy vọng được trở lại làm người.

Có lẽ Nam Cao không phải một lần viết về sức mạnh của tình yêu. Tình yêu có thể biến con người ta trở lên tốt đẹp hơn cho dù tình yêu ấy có bị chế giễu, những con người trong tình yêu ấy bị cả xã hội hắt hủi. Chỉ cần họ tìm thấy ở nhau tình cảm chân thành, sự sẻ chia đồng cảm thì chắc chắn, tình yêu chân chính sẽ đưa họ đến với những điều tốt đẹp hơn. Chính như Thị Nở - người đàn bà xấu xí ấy cũng đã khơi gợi lên linh hồn con người từ một con quỷ dữ mang tên Chí Phèo. Đó là một tư tưởng nhân đạo vô cùng sâu sắc mà chỉ có ngòi bút của Nam Cao mới đủ sức truyền tải.

Thế nhưng, Nam Cao cũng dựng lên một câu chuyện về Chí Phèo không chỉ có vậy mà còn có những tình tiết biến hóa thật bất ngờ. Hai lần, người đọc cứ tưởng đã kết thúc câu chuyện về cuộc đời của Chí Phèo thì Nam Cao lại một lần nữa mở ra những tình huống mới.

Có nhiều người cho rằng cuộc đời Chí Phèo là một bi kịch của số phận, của tạo hóa trêu ngươi thì có lẽ vẫn chưa hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, cuộc đời của Chí phải nói là bi kịch thực sự thì phải là khi hắn đã thức tỉnh, mong muốn được làm lại cuộc đời, khao khát một cuộc sống lương thiện thì lại bị cự tuyệt thật lạnh lùng: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.

Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo đã mở lời với Thị "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui", một lời tỏ tình thật đáng yêu quá đỗi. Bởi Chí tưởng rằng Thị sẽ dẫn Chí vào cuộc sống đời thường, cho Chí một gia đình nho nhỏ như mơ ước của Chí ngày xưa nhưng không. Định kiến của xã hội mà tiêu biểu ở đây là bà cô Thị Nở đã tước đi của hắn cái quyền làm người ấy. Bà cô Thị là một kẻ không chồng, đã ngoài năm mươi tuổi và khi thấy Thị hỏi bà về cái việc ấy, bà đã một mực ngăn cản Thị đến với Chí Phèo "Ngoài ba mươi tuổi… ai lại còn đi lấy chồng", "Đàn ông đã chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ?".

Chính cái định kiến xã hội, định kiến cổ hủ về một người đàn bà đã qua tuổi lấy chồng không được lấy chồng nữa, định kiến về một người không cha mồ côi mẹ, định kiến về một kẻ xấu thì mãi mãi không thể tốt lên được đã cướp đi của Chí tất cả những hy vọng vừa le lói, đẩy hắn vào tận cùng của bi kịch cuộc đời.

Từ khi Thị Nở đến và "trút vào hắn tất cả những lời của bà cô" rồi "ngoay ngoáy cái mông đít đi về" thì hắn mới chợt hiểu ra rằng cái xã hội kia sẽ chẳng bao giờ công nhận mình. Ban đầu, hắn còn "ngạc nhiên", còn bỡ ngỡ không hiểu tại sao Thị lại từ chối hắn sau khi đã ân cần lo lắng, chăm sóc cho hắn đến thế. Thế rồi, "hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người". Từ lúc ấy, hắn gần như tuyệt vọng, bởi hắn đã hi vọng quá rằng hắn sẽ được thu nhận bởi cái xã hội ngoài kia, nhưng không, bị Thị Nở cự tuyệt thì cái xã hội ấy cũng sẽ cự tuyệt hắn như thế mà thôi. Hắn sẽ chẳng còn đường nào mà trở lại nữa!

Trong cơn tuyệt vọng đầy đau khổ, Chí lại tìm đến với rượu, bởi chỉ có rượu mới giúp hắn trở lại là hắn, là một con quỷ, "là một kẻ mạnh". Thế nhưng, càng lạ là hôm nay, hắn "càng uống lại càng tỉnh ra". Có lẽ là hắn say nhưng nếu như mọi lần, hắn quên hắn thảy tất cả mọi thứ xung quanh mình, cũng chẳng ý thức được nỗi đau khôn cùng của mình thì hôm nay, sau khi đã tìm lại được nhân tính con người, hắn mới nhận ra, mới hiểu được cái số phận đắng cay của mình mà thấm thía nó. Những giọt nước mắt của Chí Phèo lại lần nữa xuất hiện "hắn ôm mặt khóc rưng rức", thế nhưng chẳng còn là giọt nước mắt hạnh phúc trong yêu thương mà là giọt nước mắt của tận cùng đau khổ. Hắn khóc cho cuộc đời tăm tối của hắn, hắn vùng vẫy trong đám bùn lầy đen tối, muốn thoát ra, muốn trở lại với một "xã hội công bằng và thân thiện của những con người lương thiện" để được sống, được làm người lương thiện một lần nữa nhưng chẳng ai cho hắn cái quyền ấy, tất cả mọi người. Những định kiến của xã hội đã giết chết đi linh hồn một con người như thế, tước đoạt đi của con người ấy mọi thứ mà hắn có được, vùi hắn xuống tận sâu của bùn đen.

Lần uống rượu này của Chí, hắn lại như mọi lần lảo đảo và xách dao đi, ban đầu hắn lẩm bẩm tự nhủ phải đi "đâm chết cả nhà nó (Thị Nở), đâm chết con khọm già nhà nó". Hắn cứ lảm nhảm, "cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết nó", nhưng "nó" là ai? Lúc này, sau khi tỉnh ra, Chí Phèo mới thấm thía hơn bao giờ hết cái kẻ đã đẩy hắn đến bước đường ngày hôm nay, có lẽ chính thế nên hắn "cứ đi", nhưng chẳng rẽ vào nhà Thị Nở mà lại xông vào nhà cụ Bá. Trước mặt Bá Kiến, Chí Phèo "trợn mắt, chỉ vào mặt" lão mà dõng dạc lên tiếng đòi quyền làm người, quyền lương thiện, đòi lại khuôn mặt đã bị rạch nát của mình.

Những kẻ bị dồn đến đường ác một khi đã thức tỉnh trở về thì chẳng thể ác được nữa, bởi họ đã ý thức được nhân phẩm của mình, họ không thể chấp nhận kiếp sống của thú vật được nữa. Và Chí Phèo cũng vậy. Chí Phèo chết sau khi đâm chết kẻ đã gây ra nỗi đau khổ của cuộc đời mình, hắn chết trước ngưỡng cửa được trở lại cuộc sống, chết trong tâm trạng đầy bi kịch, đầy đau đớn. Nếu như trước đây, để được sống, Chí Phèo phải bán mạng, bán linh hồn cho quỷ dữ thì giờ đây, nhân phẩm trở về, hắn quyết liệt giữ lại linh hồn lương thiện của mình. Có nhiều ý kiến cho rằng Nam Cao đã thật tàn nhẫn khi cho Chí Phèo chết đi, thế nhưng, phải thật hiểu Nam Cao thì mới nhận ra, ông thực ra đã vô cùng nhân đạo khi cho Chí Phèo kết liễu cuộc đời mình như vậy. Bởi nếu hắn còn sống tiếp, thì hắn vĩnh viễn phải chịu kiếp cô độc, phải chịu đựng bi kịch khốn khổ của cuộc đời mình, chết đi, có lẽ hắn sẽ thanh thản, và có thể sẽ lại được trở về làm một người lương thiện lần nữa.

Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu, giữa niềm đau khổ vô hạn, và giữa khát khao thống thiết được trở lại làm người không thành. Câu hỏi cuối cùng của hắn với Bá Kiến, vừa đanh thép, vừa bi phẫn xót xa, khiến cho ai nghe xong cũng chẳng khỏi day dứt "Ai cho tao lương thiện?", ai cho hắn được một lần nữa là một con người, được sống một cuộc sống con người?

Cái chết của Chí Phèo và hành động giết chết Bá Kiến không chỉ mang một lớp ý nghĩa. Qua hành động giết chết Bá Kiến, Nam Cao như muốn nói rằng đây là một sự trả thù bằng máu, bởi chính những kẻ cường hào lọc lõi như Bá Kiến là những kẻ đã đẩy những người nông dân vào tăm tối, vào bước đường cùng tuyệt vọng, phải bán linh hồn cho quỷ dữ để được sống. Và một khi người nông dân ấy lấy lại được ý thức về nhân phẩm của mình, về quyền sống của mình thì chính chúng là những kẻ phải nhận lấy sự trả thù, nhận lấy cái chết đầu tiên. Còn cái chết của Chí Phèo, hắn đã chết bên ngưỡng cửa của cuộc sống lương thiện, đó là bi kịch của những người nông dân mong muốn có được một cuộc sống yên ổn, được hòa nhập với xã hội, được yêu thương nhưng lại bị cả xã hội cự tuyệt, đẩy đến đường cùng, đến cái chết.

Nam Cao đã vô cùng thành công khi khắc họa hình ảnh của Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành bị tha hóa mà trở thành một con quỷ. Ông cũng thành công khi xây dựng những xung đột mâu thuẫn gay gắt giữa các tầng lớp trong xã hội để đặt nhân vật vào trong đó, vừa làm rõ nội tâm nhân vật vừa đẩy cao cao trào của câu chuyện, vừa làm rõ mâu thuẫn sâu sắc giữa họ. Ông đã dựng lên hình tượng Chí Phèo trở thành điển hình cho người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, vùng vẫy trong bùn lầy tăm tối, bị áp bức tới không còn hình dáng con người.

Ít có nhà văn nào có được cái nhìn đầy tinh tế và sâu sắc như Nam Cao, bởi ông xây dựng lớp nhân vật nào cũng đều thể hiện trong đó tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo này. Ông đã phản ánh được nỗi đau khổ và bi kịch cuộc đời của con người ấy và lý giải nó hết sức cặn kẽ và thấu đáo. Qua bi kịch của người nông dân, ông lên án chế độ phong kiến nửa thực dân với những định kiến hà khắc, với những kẻ cầm quyền ác độc đã khiến cho con người chẳng thể có được hạnh phúc dù là nhỏ nhoi. Ông cũng lên tiếng kêu cứu cho số phận những người dân nghèo, thấp cổ bé họng đầy đau khổ ấy, muốn họ được sống một cuộc sống lương thiện và hạnh phúc.

Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là hình tượng nhân vật Chí Phèo – một nhân vật đã trở thành điển hình trong dòng văn học hiện thực. Nam Cao thực đã thành công khi xây dựng tâm lý nhân vật một cách xuất sắc với nghệ thuật cấu tứ câu chuyện rất linh hoạt. Ngòi bút của ông đã điển hình hóa nhân vật Chí Phèo để đến hôm nay nhắc đến Chí Phèo, người ta lại nhớ ngay tới người nông dân nghèo, đau khổ khi bị tha hóa thành những kẻ lưu manh trong xã hội Việt Nam trước khi Cách mạng thành công.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 10

Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc

Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.

Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.

Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.

Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.

– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.

+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.

Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.

Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 11

“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.

Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.

Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.

Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.

Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân. Bi kịch của anh canh điền ngày bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hav ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”. Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu. Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.

Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại "lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt. Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù "bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật". Hắn nghiến răng hăm dọa: con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cùng kể từ đáy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu '‘vàng vàng mà lại muốn xạm màu gió” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại: “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.

Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.

Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không đẻ nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa? Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tủy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.

Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách… Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích" mà thôi! Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm, thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!". Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền”… Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả… Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”, Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, là cô độc, cái này còn đúng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. "Nếu không còn sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì đã sao?". Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!

Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hắn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tâm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.

Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí "say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát, bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.

Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là vớ được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: “hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà “sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại". Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra; hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người'’ khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị, nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.

Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lấy một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền“ như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: "… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa, ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.

Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?” là câu hỏi chứa chất phần uất, đau đớn, mãi mãi làm day dứt lòng người. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến trong cái xã hội vô nhân đạo đó. Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đào, xứng đáng được coi là một kiệt tác.

Phân tích nhân vật Thị Nở - mẫu 12

Khi Chí Phèo: “Ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gi gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ”. (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y.

Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.

“Bi kịch là tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng” Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng “cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người” … Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống – dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã. dẫu là vô ý thức, để tìm ra căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khó thay. Chí càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở “Không chỉ biết cho mà còn biết giữ” … giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người ở làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ dễ dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.

Chí là một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng với những người lao động. Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết không thích những cái gì mà người ta khinh”. Anh khát khao có “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thế với trong tầm tay.

Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy – tám năm. Đây là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. “Hắn về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng “sững đá” (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng” – “câng câng” thì còn ra cái mặt người. “Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết” Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù. Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua.. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát, Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.

Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cốt cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn”, lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã gợi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc – cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau". Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu – dù là tình thương yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí. Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.

Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”, Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng “đòi lương thiện” với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.

Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám “nuôi dưỡng".

Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.

Bài viết liên quan

456
  Tải tài liệu