Quảng cáo
2 câu trả lời 1501
Xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XIV ẩn chứa trong lòng biết bao mốì mâu thuẫn, xung đột gây nên những bi kịch bất hạnh cho con người. Nhân vật Vũ Như Tô trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng phải chịu một số phận bi kịch bởi sự mâu thuẫn không thể điều hoà giữa cái Đẹp và cái Thiện. Nội dung đó thể hiện sâu sắc qua trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng đài.
“Bi kịch” trong văn học ngoài ý nghĩa là một thể loại kịch, thuật ngữ đó còn chỉ “tình cảnh éo le mâu thuẫn đến đau thương”. Nói đến số phận bi kịch của nhân vật là nói đến việc mắc vào những mâu thuẫn, nghịch cảnh oan trái dẫn đến những kết cục bi thương. Nhân vật của bi kịch được đặt trong mốì mâu thuẫn không thể điều hoà, căng thẳng, quyết liệt và nhân vật chỉ có thể thoát ra khỏi đó bằng cái chết bi thảm gây xúc động mạnh cho công phúng.
Vũ Như Tô là một nhân vật bi kịch, ông không thoát khỏi những mâu thuẫn, giằng xé quyết liệt trong xã hội đương thời.
Trước hết cần khẳng định Vũ Như Tô là một con người tài hoa, đại diện cho cái Đẹp. Là một thiên tài “ngàn năm chưa dễ có một” ông có thể “sai khiến” những viên gạch như tướng cầm quân, “chỉ vẩy bút” là chim hoa đã hiện trên mảnh lụạ thần tình. Một tài năng như vậy đáng nâng niu tràn trọng, đáng để muôn đời tôn sùng thờ phụng. Tài năng ấy có thể dựng xây “tô điểm” cho non nước những công trình kiến trúc vĩ đại.
Xem thêm: Phân tích giá trị của câu hỏi tu từ trong đoạn thơ sau: “Mơ khách đương xa, khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà?” (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử)
Không chỉ tài năng, ở Vũ Như Tô cái tài còn gắn với tâm huyết và ước mơ, khát vọng về cái Đẹp. Điều đó tưởng như chẳng có gì phải nói bởi một người phải có dam mê, nỗ lực rèn giũa mới có thể thành tài. Vũ Như Tô tài ba như vậy hiển nhiên ông khao khát và dam mê sáng tạo. Tuy nhiên, điều nổi bật ở đây là ông đã chấp nhận xây Cửu Trùng Đài, lợi dụng quyền thế, tiền bạc của tên hôn quản Lê Tưởng Dực, trổ hết tài nghệ mong muốn xây dựng cho nước nhà một toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao”, có thể “tranh tinh xảo với hoá công”. Bằng mọi giá ông xây dựng Cửu Trùng Đài hùng vĩ tráng lệ.
Song những người càng say mê, khao khát sáng tạo nghệ thuật thì càng dễ xa rời cuộc sống. Đây có lẽ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mâu thuẫn, bi kịch trong số phận Vũ Như Tô. Say mê sáng tạo, mải miết hiến dâng nhưng Vũ Như Tô không để ý rằng Cửu Trùng Đài là nguyên nhân trực tiếp gây ra bao đau thương, mất mát cho nhân dân. Hàng trăm người phải đi phục dịch, hàng chục người phải bỏ mạng, hàng trăm nóc nhà tiếng người rên la vì Cửu Trùng Đài.
Chính sự mơ màng chỉ quen chìm đắm trong sáng tạo, tôn thờ cái Đẹp mà Vũ Như Tô không nhận thức được hiểm họa đối với mình ẩn sau Cửu Trùng Đài.
Xem thêm: Hãy bình luận ý kiến sau đây của Tuân Tử (313 - 235 trước Công nguyên): “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta; người khen ta mà khen phải là bạn ta; những kẻ vuốt ve y nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy"
Loạn lạc nổi lên, Đan Thiềm khẩn thiết van nài Vũ Như Tô “trốn đi” nhưng ông vẫn một mực “Làm gì phải trôn?”. Ông vẫn tin tưởng rằng cuộc đời ấy vẫn còn đành chỗ cho cái Đẹp. Không, khi xã hội đã rối ren, thối nát từ trên xuống dưới, khi kẻ làm quan chỉ lo làm sao cho túi được đầy, quyền lực được nghiêng ngửa đất trời; khi nhân dân lầm than không đủ ăn đủ mặc thì còn ai nghĩ về cái Đẹp? Lúc ấy cái Đẹp chỉ là sự ấu trĩ, ngu ngốc mà thôi. Vậy nên “dân gian ai ai cũng coi ông (Vũ Như Tô) là thủ phạm” và họ “dấy nghĩa cốt giết ông”.
Tài cao, tâm lớn nhưng cái Đẹp của Vũ Như Tô không hề phù hợp với cái Thiện gắn với sự yên bình cho đời sống nhân dân. Bị nhân dân oán nhấm, trách nhầm đã là một đau xót, một bi kịch. Còn gì đau xót hơn là bị chính nhân dân mình – đối tượng mà mình luôn khao khát phục vụ, tô điểm lại quay lưng oán trách? Bi kịch trong số phận của Vũ Như Tô còn bị đẩy đến xa hơn khi Cửu Trùng Đài bị đốt phá và chính ông bị giết.
Cửu Trùng Đài bị đốt phá. Có tiếng vui vẻ “Cửu Trùng Đài đã cháy!”. Cống hiến của ông – bằng chứng duy nhất chứng minh Vũ Như Tô trong sạch – không được thừa nhận. Người ta phá huỷ nó trong niềm phấn khích, hân hoan. Cái Đẹp bị phủ nhận. Không những thế, bản thân Vũ Như Tô cũng chịu chung số phận với Cửu Trùng Đài “Còn Vũ Như Tô đem phanh thây trăm mảnh”. Và khi nghe tiếng reo hò vui vẻ vì Cửu Trùng Đài bị đốt phá ông “chua chát”: “Dẫn ta đến pháp trường!”.
Nguyễn Huy Tưởng được biết đến chính là nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch nổi tiếng có thiên hướng về các đề tài lịch sử. Thông qua những đề tài này ông đóng góp những quan điểm, tư tưởng mới mẻ về nghệ thuật và cuộc đời. Trong các tác phẩm kịch của ông nổi bật nhất là Vũ Như Tô. Tác phẩm đã khắc họa bi kịch người nghệ sĩ tài ba song sinh nhầm thời và nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nội dung đó đã được phản ánh chân thực và đầy đủ nhất qua đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.
Tác giả đã xây dựng nhân vật Vũ Như Tô là người có đam mê với cái đẹp, một kiến trúc sư giỏi, có tài “tranh tinh xảo với hóa công”. Ông đã xây dựng được nhiều công trình kiến trúc tuyệt mỹ có tiếng đến vua quan và bị Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài - nơi để vui chơi, hưởng lạc với cung nữ. Vốn là con người chín chắn, gắn bó với nhân dân dù bị ép buộc, dọa giết nhưng ông quyết không đem tài năng cống hiến cho hôn quân. Sau khi được cung nữ Đan Thiềm - con người ham mê cái đẹp của nghệ thuật thuyết phục lợi dụng tiền của và quyền lực vua chúa để xây dựng cho đất nước tòa lâu đài vĩ đại cho dân ta “nghìn thu còn hãnh diện” nên ông mới đồng ý làm nên Cửu Trùng Đài.
Bản thân ông lại sai lầm trong suy nghĩ và hành động. Xây dựng Cửu Trùng Đài ông vấp phải mâu thuẫn với nhân dân. Để xây dựng được nó cần tiêu tốn biết bao của cải, mà của cải ấy không ở đâu khác chính là Lê Tương Dực vơ vét của nhân dân bằng những thứ thuế má nặng nề, vô lí. Đời sống nhân dân cực khổ, họ bị đẩy vào bước đường cùng. Cửu Trùng Đài cao lên bao nhiêu thì máu xương, mồ hôi của nhân dân phải đổ xuống bấy nhiều, bởi vậy mâu thuẫn, sự căm hận ngày càng bị đẩy lên cao trào. Đặc biệt, Vũ Như Tô vì mục đích hoàn thiện Cửu Trùng Đài mà không ngần ngại hạ lệnh phạt hoặc giết chết những kẻ bỏ trốn để tăng cường kỉ luật làm việc trên công trường. Dần dần Vũ Như Tô biến thành một kẻ ác, là thủ phạm gây nên cuộc sống đau khổ, bất hạnh cho nhân dân.
Nếu như Vũ Như Tô là người có cái tâm một chút thì sẽ không gây nên thảm họa cuộc đời của ông về sau bởi đúng như Nguyễn Du đã từng nói:
“Thiên căn tại ở lòng người
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
Vũ Như Tô vừa là tội nhân, vừa là nạn nhân trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài. Tội nhân vì thực thi mệnh lệnh của hôn quân dù cho đó là lợi dụng để điểm tô cho dân tộc, nạn nhân vì lí tưởng hóa mong muốn của bản thân và mâu thuẫn giữa nghệ thuật với hiện thực cuộc sống. Bi kịch của Vũ Như Tô minh chứng cho quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh đáng trân trọng và tôn thờ hơn rất nhiều lần nghệ thuật vị nghệ thuật.
Có thể khẳng định rằng kết cục thất bại thảm hại của Vũ Như Tô, sự tan vỡ của Cửu Trùng Đài là tất yếu, bởi Cửu Trùng Đài là một công trình nghệ thuật tuyệt mỹ nhưng không tuyệt thiện nó là bông hoa ác cho nên nó bị hủy diệt, còn Vũ Như Tô từ đầu chí cuối ông chỉ đứng trên lập trường của cái đẹp, của nghệ thuật thuần túy, mà không hề đứng trên lập trường của nhân dân. Ông là một người có tài năng nghệ thuật chứ không phải là một hiền tài. Nhưng việc đưa Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ thiên tài ra pháp trường có thỏa đáng không và đốt phá Cửu Trùng Đài với tư cách là trốn để ăn chơi là hoàn toàn thỏa đáng nhưng đốt Cửu Trùng Đài với tư cách là một công trình nghệ thuật vĩ đại - vinh danh tên tuổi của dân tộc mình có thỏa đáng không. Chính Vũ Như Tô cũng không trả lời câu hỏi này như thế nào. Vũ Như Tô chưa hiểu tội của mình là gì? Trong những hồi kịch đầu tiên thì Vũ Như Tô luôn luôn đặt ra câu hỏi khẳng định: “Tôi không làm gì nên tội” nhưng đến cuối hồi kịch Vũ Như Tô chuyển từ câu hỏi đấy sang câu nghi ngờ “Ta tội gì”... Đồng thời, qua bi kịch của Vũ Như Tô cũng thức tỉnh ta mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, đó phải là nghệ thuật vị nhân sinh.
Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện, đó là ngôn ngữ kịch có tính tổng hợp rất cao, nhất là trong hồi cuối của vở kịch Vũ Như Tô, tác giả đã dẫn dắt hành động xung đột kịch rất thành công, tạo nên một bức tranh đời sống bi kịch hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của nó. Đặc biệt là việc khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng qua nhịp điệu lời nói - hành động bằng ngôn ngữ tổng hợp (miêu tả, kể, bộc lộ...) mang tính hành động cao, đã thể hiện thành công nhân vật trung tâm Vũ Như Tô của vở kịch lịch sử cùng tên.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK72718
-
56040
-
Hỏi từ APP VIETJACK40676
-
Hỏi từ APP VIETJACK37754
