Quảng cáo
2 câu trả lời 297
Trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. Học sinh chúng ta có nhiều cơ hội hơn để được trau dồi, tiếp thu kiến thức, mở mang tầm hiểu biết và hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, để hoàn thiện bản thân mình hơn trong cách sống cũng như tâm hồn, chúng ta cần phải tích cực tìm hiểu, bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.
- Tên gọi khác: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao
- Cư trú: ở Việt Nam dân tộc Tày cư trú tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Thái Nguyên... Tại tỉnh Thái Nguyên dân tộc Tày cư trú ở tất cả các huyện, thành, thị.
- Số lượng:
Ở Thái Nguyên, năm 1999, dân tộc Tày có khoàng 106.238 người, đứng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm 10,15%) hiện đang có mặt ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất ở huyện Định Hoá (41,1%) tiếp đến là huyện Phú Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%)... và ít nhất là thị xã Sông Công (0,39%).
Dân tộc Tày tính đến năm 2009 toàn tỉnh có 123.197 người phân bố ở tất cả các huyện, thành, thị xã toàn tỉnh. Tập trung đông nhất ở huyện Định Hoá là 46.004 người, chiếm 37,3% số lượng dân tộc Tày toàn tỉnh; tiếp đến là Phú Lương: 20.863 người, chiếm 16,9%; TP Thái Nguyên: 19.312 người chiếm 15,7%; huyện Đại Từ: 15.654 người chiếm 12,7%; huyện Võ Nhai: 14.583, chiếm 11,8%... ít nhất là thị xã Sông Công: 889 người, chiếm 0,7%.
1. Nhà ở:
a) Cấu trúc của ngôi nhà:
- Nhà sàn: Là loại nhà có từ lâu đời của người Tày. Trước đây, do còn nhiều rừng nên họ chỉ dựng nhà bằng các loại nguyên vật liệu được lấy từ rừng như tre, gỗ, lá cọ... Cách đây vài chục năm loại hình nhà sàn cột chôn là loại hình phổ biến.
Chỉ từ sau năm 1960, khi thành lập HTX nông nghiệp, người ta mới có điều kiện làm loại nhà sàn cột kê trên đá tảng. Phần sàn dùng cho người ở, phần gác để sấy khô, cất giữ một số lương thực, thực phẩm và gầm sàn dùng để nhốt gia súc, gia cầm, chất củi, để nông cụ, cối giã và đan lát.
Nhà sàn của người Tày Định Hoá - Thái Nguyên
Người Tày không tính quy mô ngôi nhà bằng số gian mà tính bằng cột chính, chẳng hạn loại nhà 8 cột, 10 cột, 12 cột... Mặt bằng nhà có dạng hình chữ nhật hay dạng gần hình vuông, trong đó dạng gần hình vuông là phổ biến. Ngay cả một số gia đình người Sán Chay, Nùng ở Phú Lương và Định Hoá cũng chịu ảnh hưởng kiểu nhà của người Tày.
Đối với loại nhà sàn có cấu trúc dạng vì kèo ba cột như trước đây thì mỗi vì kèo được bố trí ba cột, hai chiếc xà ngang và một bộ vì kèo. Với loại nhà này xung quanh thường được bưng bằng ván, bằng phên hay liếp tre còn mái lợp bằng lá cọ. Đây là loại nhà cổ nhất nhưng hiện nay không còn thấy phổ biến nữa.
Cầu thang nhà sàn người Tày
Khoảng 20 năm trở lại đây, nhất là sau đổi mới rất nhiều gia đình người Tày ở Thái Nguyên bắt đầu chuyển từ nhà sàn xuống ở nhà nền đất. Nguyên nhân chủ yếu là do hiện nay thiếu nguyên liệu gỗ để làm nhà, rừng không còn nhiều để khai thác nữa.
Cấu trúc nhà nền đất của người Tày ở đây có đặc điểm là hầu hết các ngôi nhà đều được xây dựng khá cao.
b) Những tập quán, tín ngưỡng liên quan đến dựng nhà mới.
- Trước hết: phải xem hướng làm nhà. Tránh làm nhà ở cạnh sông vì theo quan niệm của họ nước sông suối động chạm đến tổ tiên, không có tài lộc. Tránh để mặt nhà nhìn thẳng vào tảng đá vì như vậy khó giữ gìn của cải, làm ăn ít gặp may mắn. Kỵ phía trước nhà có ngọn núi nào đó có hướng đâm thẳng vào nhà bởi đó là hướng sát chủ, dễ bị chết oan.
- Kiêng kỵ khi làm nhà: Ngày và tháng khởi công đào đắp nền nhà cũng như việc khởi công lấy nguyên vật liệu, ngày dựng nhà và ngày làm lễ vào nhà mới chọn những ngày không xung khắc với tuổi của chủ nhà. Không chọn ngày khởi công đào đắp nền nhà vào ngày hoả hay ngày có tiếng sấm đầu năm, ngày trùng với ngày chết của cha mẹ bởi vì những ngày đó là ngày xấu không mang lại sự may mắn cho các công việc làm nhà tiếp theo. Trong ngày đầu nhất thiết phải đốn lấy cột nóc. Tuyệt đối không lấy những cây bị gãy ngọn, cây bị sét đánh để làm nhà vì họ cho rằng những cây đó bị thần, ma làm hỏng lấy về làm nhà sẽ bị tai hoạ.
Sau khi nền nhà làm xong để nguyên một thời gian cho đất chặt lại chắc chắn mới tiến hành các công đoạn dựng nhà. Ngày khởi công xây dựng nhà mới gia chủ cũng phải tiến hành làm lễ cúng gia tiên và thổ thần.
- Nghi thức vào nhà mới: Ở đây người Tày làm đơn giản: chọn một nam ở họ nội và một nữ ở họ ngoại. Những người này phải đạt tiêu chuẩn là uy tín, nhà không có tang, gia đình hoà thuận, có cả con trai lẫn con gái, am hiểu phong tục. Trước hết mỗi người cầm một bó đuốc đi vào nhà, nam đi trước nữ đi sau, khi đến bếp họ chụm hai bó đuốc vào nhóm lửa và lên tiếng chúc gia đình may mắn, làm ăn phát đạt, theo sau người nhóm bếp là anh em mang thóc, ống nước, ống mẻ và bình vôi vào nhà mới. Bếp lửa cháy suốt ba ngày ba đêm không tắt.
Những tập quán, tín ngưỡng liên quan đến ăn ở trong ngôi nhà
Một trong những đặc điểm thể hiện rõ nét tập quán sinh hoạt trong nhà ở của ngời Tày là cách bố trí giường ngủ. Nếu trong nhà chỉ có một đôi vợ chồng cùng với các con còn nhỏ thì chỉ đặt một chiếc giường ngủ ở trong buồng cạnh bếp sưởi. Khi các con trai và con gái đến tuổi trưởng thành thì đặt thêm những chiếc giường khác tại những vị trí đã được qui định. Trường hợp trong nhà có con trai lấy vợ thì sẽ làm thêm một buồng ngủ, đối diện với buồng ngủ của con gái. Các con trai đã trưởng thành được bố trí ngủ ở gian giữa hay ở gian bên cạnh nhưng thường là chỗ gần với bàn thờ tổ tiên. Cùng với những qui định về chỗ ngủ, trong nhà còn có những qui định khá nghiêm ngặt. Thường ngày, bố chồng không được đi vào các buồng ngủ của các cô dâu, không đến chỗ ngủ của các cô con gái đã lớn tuổi; cô dâu không được vào buồng ngủ của bố chồng, anh em trai chồng đã có vợ. Bàn thờ gia tiên được coi là chốn linh thiêng, kiêng sản phụ đi qua, không được treo những thứ được gọi là uế tạp như quần áo, đặc biệt là đồ mặc của sản phụ, tã lót của trẻ sơ sinh...
2. Trang phục:
Y phục nữ: Bộ y phục cổ truyền của phụ nữ Tày ở Thái Nguyên gồm khăn, áo, dây lưng và váy.
- Khăn: Thường màu chàm hoặc đen, làm tự loại vải tự dệt hoặc bằng vải láng hoặc nhung đen. Khăn thường có hai loại, một loại đội đầu hình tam giác cân. Loại thứ hai được dùng để vấn tóc, được cắt theo dạng hình chữ nhật có kích cỡ to nhỏ, dài ngắn tuỳ theo bộ tóc của người sử dụng. Loại khăn này thường được làm bằng nhung đen hoặc xanh chàm, không thêu hoa văn trang trí.
Áo cổ truyền thường được may bằng vải nhuộm chàm hoặc từ vải láng, phin đen không trang trí, dài đến tận bắp chân, ống tay hẹp. Cổ áo to nhỏ tuỳ người sử dụng. Khi mặc cài cúc ở bên nách phải. Ngoài chiếc áo dài một số người còn mặc bên trong một chiếc áo ngắn khác với màu áo dài, được may như kiểu áo của người Kinh.
Trang phục nam, nữ người Tày
- Váy và quần: Trước kia các cụ bà Tày mặc váy, nhưng hiện nay hầu hết phụ nữ Tày ở Thái Nguyên đều mặc quần. Những chiếc quần họ mặc thường ngày cũng như mặc trong nghi lễ đều có màu chàm đen. Hiện nay, do người Tày không còn trồng bông dệt vải nữa nên quần mặc hàng ngày của họ chủ yếu được may khâu từ vải chéo đen hoặc hoặc vải lụa hay láng đen. Khi mặc quần và áo được giữ chặt bằng cách buộc dây lưng.
- Thắt lưng cổ truyền của người phụ nữ Tày là một tấm vải màu chàm hoặc màu đen. Khi mặc váy hoặc quần hoặc quần và áo xong thì người ta mới quấn dây thắt lưng nhiều vòng quanh eo sau đó buộc vắt ra phía sau.
- Giày: Thường ngày phụ nữ người Tày ít đi giày, chủ yếu đi dép, thậm chí đi chân đất, mỗi khi lên sàn đều phải rửa chân. Chỉ trong những ngày lễ tết hoặc những ngày trời lạnh họ mới đi giày vải. Ngày nay, trong những ngày lễ hoặc tết phụ nữ thường đi giày nhung đen.
Y phục nam:
Từ lâu người đàn ông Tày ở Thái Nguyên đã mặc bộ y phục giống như người Kinh, đầu cắt tóc ngắn, chân đi giầy hoặc dép, đội mũ nồi hoặc mũ lưỡi chai.
- Đồ trang sức: Không phong phú như những dân tộc khác. Trước đây người Tày thích dùng đồ trang sức bằng bạc như hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích. Nam giới đeo nhẫn bạc, các cụ ông đeo vòng tay bạc, thanh niên có một thời bịt răng vàng.
3. Văn hoá ẩm thực
Nguồn lương thực của người Tày ở Thái Nguyên khá phong phú chủ yếu là từ các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi. Trước đây người Tày ăn xôi nếp là chính, cơm tẻ được ăn ít hơn, khoai, sắn, đậu, bí... thường được dùng để nấu độn với gạo hoặc dùng để chăn nuôi gia súc.
Nguồn thực phẩm: chủ yếu là gà, lợn, vịt, ngan và dê, các loại rau trồng trên nương. Ngoài ra còn săn bắt hái lượm thêm để cải thiện đời sống.
Một thực trạng mà ai cũng nhận thấy đó là xã hội đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người hòa nhập, cởi mở hơn với những nền văn hóa mới của nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, đôi lúc chúng ta lại quên đi, bỏ bê nét đẹp, truyền thống văn hóa của chính đất nước mà chúng ta sinh ra, lớn lên. Nhiều bản sắc đã bị mai một, giới trẻ ngày càng ít quan tâm, tìm hiểu về những truyền thống, bản sắc đó.
Từ sự vô tâm, vô tư đó mà những giá trị truyền thống tốt đẹp ngày càng bị mai một dần đi, nhiều bản sắc đã và đang dần mất đi. Những lễ hội, nhưng cuộc thi dân gian không còn nhận được nhiều sự quan tâm của con người hoặc chỉ mang dáng dấp hình thức. Đối với những bạn trẻ hiện nay, họ không quá mặn mà với những truyền thống, bản sắc đó mà họ hướng đến những thứ hướng ngoại hơn, hiện đại hơn. Chính những điều này đã làm con người đánh mất đi giá trị cốt lõi của đất nước mình.
Để giải quyết thực trạng trên, mỗi cá nhân đặc biệt là học sinh chúng ta phải tìm hiểu những bản sắc văn hóa vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu. Bên cạnh đó, nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến cho học sinh nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc. Học sinh chúng ta cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu, tích cực trau dồi hiểu biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước nhà. Có như vậy, những bản sắc văn hóa dân tộc mới được giữ gìn và duy trì tốt đẹp.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là trách nhiệm chung của tất cả những con người Việt Nam mang dòng máu đỏ da vàng chúng ta. Chính vì thế, ta cần có ý thức giữ gìn và phát huy những truyền thống đó để nó ngày càng đẹp đẽ và phát triển rộng rãi hơn.
Trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. Học sinh chúng ta có nhiều cơ hội hơn để được trau dồi, tiếp thu kiến thức, mở mang tầm hiểu biết và hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, để hoàn thiện bản thân mình hơn trong cách sống cũng như tâm hồn, chúng ta cần phải tích cực tìm hiểu, bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.
- Tên gọi khác: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao
- Cư trú: ở Việt Nam dân tộc Tày cư trú tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Thái Nguyên... Tại tỉnh Thái Nguyên dân tộc Tày cư trú ở tất cả các huyện, thành, thị.
- Số lượng:
Ở Thái Nguyên, năm 1999, dân tộc Tày có khoàng 106.238 người, đứng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm 10,15%) hiện đang có mặt ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất ở huyện Định Hoá (41,1%) tiếp đến là huyện Phú Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%)... và ít nhất là thị xã Sông Công (0,39%).
Dân tộc Tày tính đến năm 2009 toàn tỉnh có 123.197 người phân bố ở tất cả các huyện, thành, thị xã toàn tỉnh. Tập trung đông nhất ở huyện Định Hoá là 46.004 người, chiếm 37,3% số lượng dân tộc Tày toàn tỉnh; tiếp đến là Phú Lương: 20.863 người, chiếm 16,9%; TP Thái Nguyên: 19.312 người chiếm 15,7%; huyện Đại Từ: 15.654 người chiếm 12,7%; huyện Võ Nhai: 14.583, chiếm 11,8%... ít nhất là thị xã Sông Công: 889 người, chiếm 0,7%.
1. Nhà ở:
a) Cấu trúc của ngôi nhà:
- Nhà sàn: Là loại nhà có từ lâu đời của người Tày. Trước đây, do còn nhiều rừng nên họ chỉ dựng nhà bằng các loại nguyên vật liệu được lấy từ rừng như tre, gỗ, lá cọ... Cách đây vài chục năm loại hình nhà sàn cột chôn là loại hình phổ biến.
Chỉ từ sau năm 1960, khi thành lập HTX nông nghiệp, người ta mới có điều kiện làm loại nhà sàn cột kê trên đá tảng. Phần sàn dùng cho người ở, phần gác để sấy khô, cất giữ một số lương thực, thực phẩm và gầm sàn dùng để nhốt gia súc, gia cầm, chất củi, để nông cụ, cối giã và đan lát.
Nhà sàn của người Tày Định Hoá - Thái Nguyên
Người Tày không tính quy mô ngôi nhà bằng số gian mà tính bằng cột chính, chẳng hạn loại nhà 8 cột, 10 cột, 12 cột... Mặt bằng nhà có dạng hình chữ nhật hay dạng gần hình vuông, trong đó dạng gần hình vuông là phổ biến. Ngay cả một số gia đình người Sán Chay, Nùng ở Phú Lương và Định Hoá cũng chịu ảnh hưởng kiểu nhà của người Tày.
Đối với loại nhà sàn có cấu trúc dạng vì kèo ba cột như trước đây thì mỗi vì kèo được bố trí ba cột, hai chiếc xà ngang và một bộ vì kèo. Với loại nhà này xung quanh thường được bưng bằng ván, bằng phên hay liếp tre còn mái lợp bằng lá cọ. Đây là loại nhà cổ nhất nhưng hiện nay không còn thấy phổ biến nữa.
Cầu thang nhà sàn người Tày
Khoảng 20 năm trở lại đây, nhất là sau đổi mới rất nhiều gia đình người Tày ở Thái Nguyên bắt đầu chuyển từ nhà sàn xuống ở nhà nền đất. Nguyên nhân chủ yếu là do hiện nay thiếu nguyên liệu gỗ để làm nhà, rừng không còn nhiều để khai thác nữa.
Cấu trúc nhà nền đất của người Tày ở đây có đặc điểm là hầu hết các ngôi nhà đều được xây dựng khá cao.
b) Những tập quán, tín ngưỡng liên quan đến dựng nhà mới.
- Trước hết: phải xem hướng làm nhà. Tránh làm nhà ở cạnh sông vì theo quan niệm của họ nước sông suối động chạm đến tổ tiên, không có tài lộc. Tránh để mặt nhà nhìn thẳng vào tảng đá vì như vậy khó giữ gìn của cải, làm ăn ít gặp may mắn. Kỵ phía trước nhà có ngọn núi nào đó có hướng đâm thẳng vào nhà bởi đó là hướng sát chủ, dễ bị chết oan.
- Kiêng kỵ khi làm nhà: Ngày và tháng khởi công đào đắp nền nhà cũng như việc khởi công lấy nguyên vật liệu, ngày dựng nhà và ngày làm lễ vào nhà mới chọn những ngày không xung khắc với tuổi của chủ nhà. Không chọn ngày khởi công đào đắp nền nhà vào ngày hoả hay ngày có tiếng sấm đầu năm, ngày trùng với ngày chết của cha mẹ bởi vì những ngày đó là ngày xấu không mang lại sự may mắn cho các công việc làm nhà tiếp theo. Trong ngày đầu nhất thiết phải đốn lấy cột nóc. Tuyệt đối không lấy những cây bị gãy ngọn, cây bị sét đánh để làm nhà vì họ cho rằng những cây đó bị thần, ma làm hỏng lấy về làm nhà sẽ bị tai hoạ.
Sau khi nền nhà làm xong để nguyên một thời gian cho đất chặt lại chắc chắn mới tiến hành các công đoạn dựng nhà. Ngày khởi công xây dựng nhà mới gia chủ cũng phải tiến hành làm lễ cúng gia tiên và thổ thần.
- Nghi thức vào nhà mới: Ở đây người Tày làm đơn giản: chọn một nam ở họ nội và một nữ ở họ ngoại. Những người này phải đạt tiêu chuẩn là uy tín, nhà không có tang, gia đình hoà thuận, có cả con trai lẫn con gái, am hiểu phong tục. Trước hết mỗi người cầm một bó đuốc đi vào nhà, nam đi trước nữ đi sau, khi đến bếp họ chụm hai bó đuốc vào nhóm lửa và lên tiếng chúc gia đình may mắn, làm ăn phát đạt, theo sau người nhóm bếp là anh em mang thóc, ống nước, ống mẻ và bình vôi vào nhà mới. Bếp lửa cháy suốt ba ngày ba đêm không tắt.
Những tập quán, tín ngưỡng liên quan đến ăn ở trong ngôi nhà
Một trong những đặc điểm thể hiện rõ nét tập quán sinh hoạt trong nhà ở của ngời Tày là cách bố trí giường ngủ. Nếu trong nhà chỉ có một đôi vợ chồng cùng với các con còn nhỏ thì chỉ đặt một chiếc giường ngủ ở trong buồng cạnh bếp sưởi. Khi các con trai và con gái đến tuổi trưởng thành thì đặt thêm những chiếc giường khác tại những vị trí đã được qui định. Trường hợp trong nhà có con trai lấy vợ thì sẽ làm thêm một buồng ngủ, đối diện với buồng ngủ của con gái. Các con trai đã trưởng thành được bố trí ngủ ở gian giữa hay ở gian bên cạnh nhưng thường là chỗ gần với bàn thờ tổ tiên. Cùng với những qui định về chỗ ngủ, trong nhà còn có những qui định khá nghiêm ngặt. Thường ngày, bố chồng không được đi vào các buồng ngủ của các cô dâu, không đến chỗ ngủ của các cô con gái đã lớn tuổi; cô dâu không được vào buồng ngủ của bố chồng, anh em trai chồng đã có vợ. Bàn thờ gia tiên được coi là chốn linh thiêng, kiêng sản phụ đi qua, không được treo những thứ được gọi là uế tạp như quần áo, đặc biệt là đồ mặc của sản phụ, tã lót của trẻ sơ sinh...
2. Trang phục:
Y phục nữ: Bộ y phục cổ truyền của phụ nữ Tày ở Thái Nguyên gồm khăn, áo, dây lưng và váy.
- Khăn: Thường màu chàm hoặc đen, làm tự loại vải tự dệt hoặc bằng vải láng hoặc nhung đen. Khăn thường có hai loại, một loại đội đầu hình tam giác cân. Loại thứ hai được dùng để vấn tóc, được cắt theo dạng hình chữ nhật có kích cỡ to nhỏ, dài ngắn tuỳ theo bộ tóc của người sử dụng. Loại khăn này thường được làm bằng nhung đen hoặc xanh chàm, không thêu hoa văn trang trí.
Áo cổ truyền thường được may bằng vải nhuộm chàm hoặc từ vải láng, phin đen không trang trí, dài đến tận bắp chân, ống tay hẹp. Cổ áo to nhỏ tuỳ người sử dụng. Khi mặc cài cúc ở bên nách phải. Ngoài chiếc áo dài một số người còn mặc bên trong một chiếc áo ngắn khác với màu áo dài, được may như kiểu áo của người Kinh.
Trang phục nam, nữ người Tày
- Váy và quần: Trước kia các cụ bà Tày mặc váy, nhưng hiện nay hầu hết phụ nữ Tày ở Thái Nguyên đều mặc quần. Những chiếc quần họ mặc thường ngày cũng như mặc trong nghi lễ đều có màu chàm đen. Hiện nay, do người Tày không còn trồng bông dệt vải nữa nên quần mặc hàng ngày của họ chủ yếu được may khâu từ vải chéo đen hoặc hoặc vải lụa hay láng đen. Khi mặc quần và áo được giữ chặt bằng cách buộc dây lưng.
- Thắt lưng cổ truyền của người phụ nữ Tày là một tấm vải màu chàm hoặc màu đen. Khi mặc váy hoặc quần hoặc quần và áo xong thì người ta mới quấn dây thắt lưng nhiều vòng quanh eo sau đó buộc vắt ra phía sau.
- Giày: Thường ngày phụ nữ người Tày ít đi giày, chủ yếu đi dép, thậm chí đi chân đất, mỗi khi lên sàn đều phải rửa chân. Chỉ trong những ngày lễ tết hoặc những ngày trời lạnh họ mới đi giày vải. Ngày nay, trong những ngày lễ hoặc tết phụ nữ thường đi giày nhung đen.
Y phục nam:
Từ lâu người đàn ông Tày ở Thái Nguyên đã mặc bộ y phục giống như người Kinh, đầu cắt tóc ngắn, chân đi giầy hoặc dép, đội mũ nồi hoặc mũ lưỡi chai.
- Đồ trang sức: Không phong phú như những dân tộc khác. Trước đây người Tày thích dùng đồ trang sức bằng bạc như hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích. Nam giới đeo nhẫn bạc, các cụ ông đeo vòng tay bạc, thanh niên có một thời bịt răng vàng.
3. Văn hoá ẩm thực
Nguồn lương thực của người Tày ở Thái Nguyên khá phong phú chủ yếu là từ các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi. Trước đây người Tày ăn xôi nếp là chính, cơm tẻ được ăn ít hơn, khoai, sắn, đậu, bí... thường được dùng để nấu độn với gạo hoặc dùng để chăn nuôi gia súc.
Nguồn thực phẩm: chủ yếu là gà, lợn, vịt, ngan và dê, các loại rau trồng trên nương. Ngoài ra còn săn bắt hái lượm thêm để cải thiện đời sống.
Một thực trạng mà ai cũng nhận thấy đó là xã hội đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người hòa nhập, cởi mở hơn với những nền văn hóa mới của nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, đôi lúc chúng ta lại quên đi, bỏ bê nét đẹp, truyền thống văn hóa của chính đất nước mà chúng ta sinh ra, lớn lên. Nhiều bản sắc đã bị mai một, giới trẻ ngày càng ít quan tâm, tìm hiểu về những truyền thống, bản sắc đó.
Từ sự vô tâm, vô tư đó mà những giá trị truyền thống tốt đẹp ngày càng bị mai một dần đi, nhiều bản sắc đã và đang dần mất đi. Những lễ hội, nhưng cuộc thi dân gian không còn nhận được nhiều sự quan tâm của con người hoặc chỉ mang dáng dấp hình thức. Đối với những bạn trẻ hiện nay, họ không quá mặn mà với những truyền thống, bản sắc đó mà họ hướng đến những thứ hướng ngoại hơn, hiện đại hơn. Chính những điều này đã làm con người đánh mất đi giá trị cốt lõi của đất nước mình.
Để giải quyết thực trạng trên, mỗi cá nhân đặc biệt là học sinh chúng ta phải tìm hiểu những bản sắc văn hóa vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu. Bên cạnh đó, nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến cho học sinh nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc. Học sinh chúng ta cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu, tích cực trau dồi hiểu biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước nhà. Có như vậy, những bản sắc văn hóa dân tộc mới được giữ gìn và duy trì tốt đẹp.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là trách nhiệm chung của tất cả những con người Việt Nam mang dòng máu đỏ da vàng chúng ta. Chính vì thế, ta cần có ý thức giữ gìn và phát huy những truyền thống đó để nó ngày càng đẹp đẽ và phát triển rộng rãi hơn.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
8 228960
-
1 64186
-
Hỏi từ APP VIETJACK2 56879
-
Hỏi từ APP VIETJACK11 46681
-
6 43407