vt đoạn văn phân tích người bài khóc dương khuê
Quảng cáo
7 câu trả lời 142
Trong nền thơ hơn một nghìn năm của dân tộc Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Khuyến có một vị trí thật vẻ vang. Ông là nhà thơ của những bài thơ Việt Nam đích thực, những bài thơ mà ở đó, những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ Việt Nam thuần khiết, giản dị và đẹp đẽ. Trong những bài thơ ấy, cần phải nói (tên một bài thơ không mấy ai không biết: bài Khóc Dương Khuê).
Xét cho cùng, tình bạn giữa hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vốn không phải là một tình bạn thật hoàn toàn như ý. Tuy đỗ cử nhân cùng khoa thi với Nguyễn Khuyến, rồi đỗ tiến sĩ, cùng làm quan cho triều Nguyễn, nhưng sau năm 1884, năm đất nước thật sự mất vào tay thực dân Pháp, Dương Khuê lại không có được cái chí như Nguyễn Khuyến. Không cáo quan về làng, Dương Khuê tiếp tục làm quan cho triều đình tay sai thực dân cho đến tận lúc qua đời ở tuổi 64 (1902).
Tuy vậy, nói thế là để nhìn rõ hết mọi chuyện. Người Việt Nam ta vẫn có câu: nghĩa tử là nghĩa tận. Cái chết đột ngột của Dương Khuê đã thật sự li: một nỗi đau cho Nguyễn Khuyến. Lúc ấy, quên hết mọi điều, ông chỉ còn biết một điều duy nhất: ông đã mất một người bạn thân, mất một nguồn tình cảm quý giá không thế lấy gì thay thế được. Lúc ấy, tự đáy lòng, từ nột tình bạn mà hình như chính ông cũng không thể đo lường hết chiều sâu, Nguyễn Khuyến đã chợt kêu lên những tiếng kêu thảng thốt:
Bác Dương thôi đã, thôi rồi,
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.
Hầu như không có một chút vãn chương chữ nghĩa nào trong hai dòng thơ trên, đặc biệt là dòng thơ thứ nhất. Chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành, trọn vẹn, tự mình thể hiện ra thành lời. Hai tiếng “thôi” dân dã và tự nhiên, cứ như bật lên từ lời nói của một người dân quê bình dị nào đó. Đặt câu thơ này vào trong hoàn cảnh xã hội mà sự “cao nhã“ luôn luôn được coi là một yêu cầu hàng đầu của văn chương, ta càng thấy ở đây sự chân được nhà thơ coi trọng đến chừng nào. Nói đến cái chết, ông không dám động đến từ “chết”. Trời đất cao dày ơi lẽ nào chuyện ấy đã đến thật rồi sao? “Thôi đã... thôi rồi”! Thế là hết! Thật thế rồi! Một kẻ quyền quý ngày xưa khi lỡ tay làm rơi mất viên ngọc lưu li độc nhất vô nhị trong thiên hạ, có lẽ cũng chỉ kêu lên đau đớn đến như thế là cùng. Không đau nỗi đau thật, làm sao có thể khóc một tiếng khóc thật như thế được.
Có điều là, với nỗi đau, Nguyễn Khuyến không thét lên, tiếng khóc của người là khóc với mình, khóc cho tự mình nghe, tiếng khóc lắng vào lòng. Tâm hồn vốn giản dị, ông chúa ghét sự ồn ào. Lúc này ông muốn ngồi một mình, đối diện với bạn, cùng nhắc lại tình bạn, cùng bạn ôn lại những gì đã từng có giữa hai người. Đã có bao nhiêu là kỉ niệm. Từ những ngày tường đã rất xa xôi:
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời
Đó là kỉ niệm khi hai người vừa mới lần đầu gặp nhau trong khoa thi Hương và cùng thi đỗ. Nguyễn Khuyến quê ở Bình Lục, Hà Nam, Dương Khuê quê ở Vân Đình, Hà Đông, hai người vốn chẳng quen biết gì nhau. Thế mà, cứ như duyên trời định sẵn, tình bạn đã bắt đầu gắn bó từ đây. Chữ nghĩa của Nguyễn Khuyến sao mà bình dị đến thế, nôm na, thân mật đến thế! Nào là “lúc sớm hôm”, rồi là "tôi bác", với những “cùng nhau”... Nhà thơ cũng xác định cái nhìn đầu tiên của mình về người bạn: đó là lòng kính yêu trọn vẹn, “kính yêu từ trước đến sau".
Cùng với giọng kể lể chân thành như thế, nhà thơ nhắc lại với bạn về những kỉ niệm khác:
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Kỉ niệm giữa đôi bạn như thế quả là rất nhiều, rất đậm. Họ đã từng cùng trải qua những giờ phút thú vị, chứng tỏ họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. Nhắc lại những kỉ niệm đó, tâm hồn nhà thư như còn rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách” xa xôi. Nhà thơ như cùng đang sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Có người sẽ hỏi: nhà thơ Nguyễn Khuyến mà cũng đi hát ả đào sao? Thi có gì đâu mà nhà thơ không đi hát ả đào! Hát ả đào là một thú vui trong xá hội phong kiến. Có lúc thú vui này bị người ta lợi dụng (thì trên đời thiếu gì điều tốt đẹp bị người ta lợi dụng). Tuy vậy, đối với đa số nhà Nho, đó lại là nơi để thưởng thức cái đẹp của lời ca, tiếng hát, tiếng đàn, cũng là nơi di dưỡng tâm hồn sau những tháng ngày gò mình trong khuôn khổ của chốn công danh, vốn được sáng tác để cho các đào nương hát lên đó sao? Nguyễn Khuyến không có những bài thơ như vậy, nhưng rõ ràng là ông đã không thể quên “thứ vui con hát”, bởi đó là thú vui được “lựa chiều cầm xoang”, trải lòng mình theo tiếng đàn, tiếng hát.
Là đôi bạn đến với nhau, thân nhau vì lòng mến mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật là chỗ tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”:
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,
Chén quỳnh tương ăm áp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Nói về việc cùng bạn uống rượu mà nhà thơ dùng từ "nháp”, lại “cùng nháp” thì thật chính xác và tinh tế, bởi đây là việc uống rượu của người “uống cho vui”, chứ không phải kiểu uống của các bợm rượu. Nhà thơ có lần đã tự nói về khả năng uống rượu của mình:
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
(Thu ẩm)
Chén các cụ dùng uống rượu ngày xưa là loại chén rất nhỏ, thường được gọi là “chén hạt mít”. Nói “nhấp” tức là uống từng hớp nhỏ, như chỉ vừa chạm môi vào, vừa uống vừa ngẫm nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức cái vị đậm, cái mùi thơm của rượu. Rượu uống chỉ như thế nhưng lại “ăm áp bầu xuân”. Bầu xuân này là bầu rượu và cũng là “bầu thơ“, bầu rượu đầy cho bầu thơ càng thêm lai láng. Hai tiếng “ăm ắp” mà nhà thơ dành cho bầu xuân” thật gợi cảm và sảng khoái. ‘‘Người thanh cái tiếng cũng thanh”, đến cách chơi cũng cho ta biết được bản chất con người, không phải bất kì ai cũng có được cái “rượu ngon cùng nhấp” ấy, nhất là cái căm nhận “ăm áp bầu xuân” ấy.
Thật là những ngày vui. Nhưng cũng có những ngày buồn, rất buồn. Đó là những ngày nước mất. Là nhà Nho, cùng phụng sự cho một triều đại, đôi bạn cùng chung chia sẻ nỗi đau của thời đại mình:
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn
Phận đấu thăng chẳng dám than trời
Bác già, tôi cũng già rồi
Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!
Những câu thơ của Nguyễn Khuyến đọc lên nghe thật buồn bã, ngao ngán. Nói “buổi dương cửu” để chỉ thời kì loạn lạc khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà thơ coi đó như là một vận hạn mà đất nước và con người phải trải qua. Không làm gì được trước vận hạn ấy, nhà thơ chỉ còn một cách lựa chọn là rời bỏ công danh, chẳng còn dám tham cái lộc trời “thăng đấu” của kẻ làm quan. Nhà thơ nói như một kẻ an phận mà nghe ra thật đau đớn. Ông cảm thấy mình bất lực, cảm thấy mình đã già. Đặc biệt câu thơ cuối đoạn, có đến ba từ "thôi” trùng diệp, khác nghĩa nhau mà như cùng một nghĩa, bổ sung cho nhau, tạo ra ấn tượng về một tâm trạng cam chịu thật nặng nề: Biết thôi- thôi - thế thì thôi. Đúng là tâm trạng của nhà thơ khi cáo quan về làng và cho đến cả những năm sau này: đau buồn trước cảnh nước mất nhưng không có thể làm gì cho đất nước ngoài việc từ quan để khỏi làm việc cho kẻ thù.
Qua 16 dòng thơ, Nguyễn Khuyến đã nhắc lại một cách cô đọng và đầy đủ về mối quan hệ bạn bè giữa đôi bạn Nguyễn Khuyến - Dương Khuê, đặc biệt là độ sâu, độ bền của tình bạn đó. Những kỉ niệm đã được nhà thơ nói tới mọt cách giản dị nhưng đầy trân trọng. Nhắc lại những kỉ niệm ấy, ôn lại và ngẫm nghĩ về tình bạn ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi đau mà mình phải chịu hôm nay thật là một điều vô lí. Ông chưa bao giờ hình dung ra sự mất mát có thể xảy đến vào lúc này. Nhà thơ nhớ lại:
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác
Trước ba năm gặp bác một lần
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.
Xét về rnặt văn chương, bốn dòng thơ trên không phải là những câu thơ thật mới lạ sắc sảo, bởi những câu thơ ấy sao mà nôm na bình thường, nào la “tuổi già thèm nhác”, rồi lại “hỏi hết xa gần”, với lại “tinh thần chưa can”, cứ như lời lẽ cua một ông lão quê mùa nào đó ở vùng đất Hà Nam. Thì đúng vậy, Nguyễn Khuyến có làm văn chương đâu, ông chỉ bộc lộ nỗi niềm của mình! Nhà thơ còn tự mình lí sự với mình:
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác
Tôi lại đau trước bác mấy ngày
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!
Chỉ khi người ta đau đớn thật lòng, người ta mới có kiểu lí sự như vậy. Như thế có khác gì nói rằng: Tại sao bác lại chết trước tôi nhỉ? Người chết trước lẽ ra phải là tôi chứ? Chính từ những lí sự này, mấy tiếng cuối cùng của đoạn thơ nổi lên thật chân thành và ai oán:
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!
Trước nỗi đau dã là sự thật, nhà thơ đành chấp nhận nồi đau và càng thấy điều này là thật vô lí:
Ai chẳng biết chán đời là phải
Vội vàng chi đã mải lên tiên
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Cái chết là một quy luật không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến vẫn tìm thấy sự vô lí: Cái chết của người bạn đã đến một cách vội vã quá, nó cướp mất của ông một người bạn hiền và như thế, cũng cướp mất của ông tất cả mọi niềm vui. Câu thơ của ông nói về trường hợp riêng của mình, nghe thật giản dị mà vang lên nhơ một chân lí về tình bạn đích thực ở đời:
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Trong hai dòng thơ, từ “không” xuất hiện đến năm lần như những cái lắc đầu buồn bã.
Không còn bạn, không còn thiết uống rượu, bởi không còn người để chia sẻ vị ngon của rượu. Không còn bạn, không còn hứng thú làm thơ, bởi vì sao?
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Lắc đầu bằng những tiếng “không”, đến đây nhà thơ tiếp tục lắc đầu bằng những câu hỏi. Hỏi cũng là để nói “không”. Thơ viết ra mà không có người thưởng thức được, cảm thông được, thì còn viết làm gì? Âm “iết” láy đi láy lại trong hai dòng thơ, rồi hai tiếng “ai”, hai tiếng “đưa” trung điệp (đưa ai - ai biết - mà đưa” cứ mở ra, khép lại, rồi lại mở ra, như một nỗi day dứt khôn nguôi.
Nhà thơ nghĩ đến những mối tình bạn mà sách vở xưa kia đã từng ca ngợi, coi nhơ tuyệt đỉnh của tình bạn: Trần Phồn đời Hậu Hán sau khi bạn ra về thì treo giường lên, không để cho ai ngồi vào cái giường chỉ dành riêng để tiếp bạn; Bá Nha sau khi Chung Tử Kì chết thì quyết bỏ không chơi đàn bởi thấy không còn ai hiểu được tiếng đàn. Ông thay mối tình giữa ông với Dương Khuê chính là một tình bạn như thế; sự mất mát của ông sau cái chết của Dương Khuê đúng là sự mất mát như thế:
Giường kia treo cũng hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn
Có thể lấy gì để bù đắp vào sự mất mát này không? Nhà thơ đã khẳng định rằng không. Chỉ còn một cách, như người ta vẫn thường làm, là tìm cho mình một cách an ủi. Rằng người chết không còn có thể sống lại được, rằng nước mắt xót thương cũng sẽ chàng giúp được gì... Nguyễn Khuyến muốn dùng cái lẽ thường ấy của đời sống để tự an ủi mình:
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Nhà thơ khuyên mình không nên khóc, bởi tuổi già còn ít nước mắt lắm, chỉ như những hạt sương mong manh thôi, làm sao có thể ép cho nước mắt tuôn chảy thành hai hàng chứa chan được. Nhưng nói như thế là nói lí. Tự nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” được, và càng hiểu ràng hai hàng nước mắt chứa chan của ông lúc này đâu phải do ông “ép lấy”. Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm đầy nước mắt, những hạt lệ từ một nỗi đau lớn, từ một tình bạn lớn.
Có thể khẳng định rằng trong thơ Việt Nam đã có rất nhiều bài thơ hay thể hiện tình cảm đẹp đẽ chân thành, nhưng cả cho đến nay, chưa có bài thơ nào nói về tình bạn có thể sánh bằng bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Cái hay ấy trước hết xuất phát từ một tình bạn đẹp và chân thành của một tâm hồn cao thượng. Cái hay ấy còn là cái hay của một nghệ thuật diễn đạt, một ngôn ngữ diễn đạt gian dị, tự nhiên, đầy tính dân tộc, hoàn toàn phù hợp với nội dung tình cảm mà bài thơ cần diễn đạt.
Đoạn văn phân tích:
"Khóc Dương Khuê" không chỉ là lời khóc bạn mà còn là bản tình ca về tình bạn chân thành, gắn bó sâu nặng của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, hai bậc túc nho cùng đỗ đạt, cùng chí hướng, chia sẻ vui buồn trong thời loạn. Mở đầu bằng nỗi bàng hoàng "Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta". Nhà thơ khắc họa hình ảnh người bạn tài hoa, nhưng bạc mệnh qua những kỷ niệm học hành, thi cử ("Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước"), rồi xót xa khi bạn yểu mệnh, còn mình thì sống sót trong thời buổi "buổi dương cửu" đầy biến động. Tình bạn ấy được nâng lên tầm vĩnh cửu, vượt qua sinh tử, như lời khẳng định "Thà rằng: chớ khuất, chớ chia đôi, còn hơn/ Cùng nhau trọn kiếp bạn bè”. Qua đó, bài thơ không chỉ ca ngợi tình bạn cao đẹp mà còn ẩn chứa nỗi niềm thế sự, sự cô đơn, nhỏ bé của người trí thức trước thời cuộc, khiến tác phẩm trở thành một tuyệt tác bất tử về tình tri âm.
Đáp án ngắn gọn: Bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến là tiếng khóc bạn chân thành, thể hiện tình bạn tri âm, tri kỷ hiếm có trong văn học Việt Nam. Qua đó, ta thấy rõ nhân cách cao đẹp, tình cảm sâu nặng và nỗi đau mất mát không gì bù đắp được của tác giả.
Phân tích nhân vật trữ tình trong Khóc Dương Khuê
Nỗi đau mất bạn: Nguyễn Khuyến nghe tin Dương Khuê qua đời đã bật khóc, nỗi đau ấy không chỉ là mất đi một người bạn mà còn là mất đi một phần tâm hồn, tri kỷ gắn bó suốt đời. Tiếng khóc vừa bi thương vừa chân thành, không màu mè.
Tình bạn tri âm: Bài thơ khắc họa tình bạn quân tử, gắn bó từ thuở thiếu thời đến lúc trưởng thành. Hai người cùng chia sẻ lý tưởng, cùng nhau học tập, làm quan, rồi về quê. Tình bạn ấy vượt lên trên lợi ích cá nhân, trở thành biểu tượng của sự gắn bó tinh thần.
Nỗi cô đơn còn lại: Sau khi bạn mất, Nguyễn Khuyến cảm thấy trống vắng, “rượu ngon không có bạn hiền”, “trống trường thành cũ rền vang đâu nữa”. Những chi tiết ấy cho thấy sự hụt hẫng, cô đơn khi mất đi người đồng hành.
Giọng thơ chân thực: Không cầu kỳ, không khoa trương, lời thơ giản dị nhưng thấm đẫm cảm xúc. Chính sự chân thực ấy làm cho bài thơ trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu về tình bạn trong văn học Việt Nam.
Giá trị nhân văn
Bài thơ không chỉ là tiếng khóc cá nhân mà còn là khúc ca về tình bạn – một tình cảm đẹp đẽ, cao quý, vượt thời gian.
Qua đó, ta thấy nhân cách Nguyễn Khuyến: một con người trọng nghĩa tình, sống chân thành, coi bạn bè là tri kỷ không thể thay thế.
Kết luận: Khóc Dương Khuê là minh chứng cho tình bạn đẹp trong văn học Việt Nam. Nguyễn Khuyến đã để lại một áng thơ bất hủ, vừa chan chứa nỗi đau mất mát, vừa tôn vinh giá trị nhân văn của tình bạn tri âm, tri kỷ
Bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến là một trong những áng thơ điếu nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam trung đại, thể hiện sâu sắc tình bạn tri kỷ cảm động.
Phân tích Bài thơ Khóc Dương KhuêBài thơ là tiếng khóc chân thành, xót xa của Nguyễn Khuyến dành cho người bạn học, bạn đồng khoa thân thiết là Dương Khuê khi ông qua đời. Giá trị của bài thơ không chỉ nằm ở sự thương tiếc cá nhân mà còn ở nghệ thuật miêu tả nỗi cô đơn, mất mát của một người tri kỷ giữa thế thái nhân tình.
1. Nỗi Đau Mất Mát và Tình Tri Kỷ Vượt Thời GianNguyễn Khuyến mở đầu bằng lời than thở trực tiếp, đầy thương cảm: "Kể từ thuở đăng khoa về sau, Bạn bè vắng ngắt như sương như khói." . Câu thơ ngay lập tức đặt tình bạn của hai người vào bối cảnh thời gian đã trôi qua và bạn bè đã dần thưa thớt. Tình cảm tri kỷ giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê càng trở nên quý giá và hiếm hoi hơn trong quãng đời xế chiều. Sự mất mát này không chỉ là mất đi một người quen, mà là mất đi một phần của ký ức và tâm hồn.
2. Nghệ Thuật Đối Lập và Hình Ảnh Hoài NiệmNỗi buồn được đẩy lên cao trào qua những hình ảnh hoài niệm về quá khứ tươi đẹp đối lập với hiện tại cô quạnh. Hình ảnh "rượu ngon không có bạn hiền" và "cờ cao chẳng gặp tay tiên" là những chi tiết đắt giá, thể hiện sự đồng điệu về sở thích tao nhã giữa hai người. Rượu và cờ vốn là niềm vui, nhưng khi thiếu tri kỷ, chúng trở nên vô nghĩa, nhạt nhẽo. Đây là cách tác giả khẳng định sự vắng mặt của Dương Khuê đã làm mất đi niềm vui sống, niềm vui thưởng thức thi vị cuộc đời.
3. Chất Trào Phúng và Lời Than Thở Cuối CùngPhần sau của bài thơ mang một chút chất trào phúng nhẹ nhàng nhưng đầy chua xót, khi Nguyễn Khuyến tự nhận mình là "dở dang" và "hữu danh vô thực" để so sánh với bạn. Ông tự giễu mình còn sống mà vô dụng, vô vị, trong khi bạn đã đi vào cõi vĩnh hằng. Đây là cách thể hiện sự quý trọng tuyệt đối của Nguyễn Khuyến đối với phẩm cách và tài năng của Dương Khuê.
Đặc biệt, câu kết "Muốn khóc lớn mà sợ người cười, nên khóc thầm" là đỉnh điểm của cảm xúc. Nó không chỉ thể hiện nỗi đau tột cùng mà còn hé lộ sự cô đơn của nhà thơ khi không thể bày tỏ nỗi lòng. Nguyễn Khuyến chọn cách khóc thầm vì nỗi đau này quá lớn, quá riêng tư, và cũng vì ông sợ sự dửng dưng, thiếu thấu hiểu của thế gian.
Tóm lạiKhóc Dương Khuê là một tuyệt tác của Nguyễn Khuyến, sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, chân chất nhưng lại chứa đựng một nỗi buồn sâu lắng và triết lý về tình bạn, cuộc đời. Bài thơ không chỉ là khúc điếu mà còn là lời tự tình của một tâm hồn đang cô độc, khắc khoải tìm về những kỷ niệm đẹp đẽ đã mất.
Nguyễn Khuyến đã mở đầu bằng một câu hỏi tu từ đầy ám ảnh: "Bác Dương thôi đã thôi rồi / Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta". Lời thơ giản dị nhưng chứa đựng sự bàng hoàng, nghẹn ngào trước sự thật phũ phàng. Hình ảnh "nước mây man mác" không chỉ gợi lên không gian vô tận, mà còn là tâm trạng trống trải, u buồn của nhà thơ. Tình bạn tri kỷ được khắc họa đậm nét qua những kỷ niệm bình dị mà sâu sắc: "Cùng trăng, cùng gió, chẵn mười năm" hay những lần "Rượu ngon không có bạn hiền / Không mua, không phải không tiền không mua". Nỗi nhớ nhung không hướng về những công danh sự nghiệp phù phiếm, mà chỉ tập trung vào những khoảnh khắc đời thường, thanh cao của hai người bạn. Sự vắng mặt của Dương Khuê khiến cho mọi thú vui tao nhã như uống rượu, thưởng trăng đều trở nên vô vị, nhạt nhẽo. Qua đó, ta thấy được sự hòa hợp tuyệt đối về tâm hồn và lối sống thanh bạch của hai ông.
Đặc biệt, Nguyễn Khuyến đã sử dụng biện pháp đối lập tài tình giữa cái hữu hạn của đời người và cái vô hạn của vũ trụ: "Cảnh vật vẫn còn trơ với nguyệt / Người sao đã khuất hẳn hoi cùng sơn". Trăng và núi vẫn còn đó, vĩnh cửu, trong khi con người lại ra đi mãi mãi. Nghệ thuật đối này nhấn mạnh sự mất mát to lớn, khiến nỗi đau trở nên day dứt hơn. Câu kết "Suối vàng hẳn biết lòng chăng nhỉ / Ngước mắt trông trời những tủi thân" là đỉnh cao của sự bi ai. Nhà thơ không chỉ khóc bạn, mà còn khóc cho chính mình, cho cái duyên tao ngộ giờ đã không còn. Nỗi "tủi thân" ấy không phải vì sợ cô độc tuổi già, mà vì cảm giác lẻ loi khi mất đi người duy nhất có thể thấu hiểu mình.
Tóm lại, "Khóc Dương Khuê" là một khúc ca bi tráng về tình bạn, được viết bằng tất cả trái tim của Nguyễn Khuyến. Bài thơ không chỉ là sự tiếc thương một cá nhân tài đức mà còn là tiếng lòng xót xa cho một thời đại, nơi những giá trị tinh thần, tình tri kỷ đang dần trở nên hiếm hoi.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
45280 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
43334 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
39000 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
36812 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
34745 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
32120 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
31425
