Quảng cáo
3 câu trả lời 156
Bài văn phân tích truyện ngắn Làng – Kim Lân
Mở bài
Kim Lân là nhà văn của nông thôn Việt Nam, ông viết bằng tất cả sự am hiểu và tình yêu dành cho người nông dân. Truyện ngắn “Làng” (1948) là tác phẩm tiêu biểu, phản ánh tình cảm quê hương, đất nước trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Qua nhân vật ông Hai, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người nông dân mới: yêu làng, yêu nước, gắn bó với kháng chiến.
Thân bài
1. Tình yêu làng sâu nặng
Ông Hai rất tự hào về làng Chợ Dầu: làng có nhiều cái hay, cái đẹp, nhà ngói san sát, đường làng lát đá.
Dù đã tản cư xa quê, ông vẫn thường khoe về làng, luôn hỏi han tin tức kháng chiến, ngóng trông quê hương.
→ Tình yêu làng là tình cảm hồn nhiên, tha thiết, rất đỗi chân chất của một người nông dân.
2. Bi kịch tâm trạng khi nghe tin làng theo giặc
Tin đồn làng Chợ Dầu theo Tây khiến ông Hai sững sờ, cổ nghẹn lại, mặt tê rân rân.
Ông đau khổ, nhục nhã, không dám ra ngoài, chỉ biết nằm vật ra trằn trọc.
Ông thương làng nhưng lại căm ghét sự phản bội Tổ quốc.
Lời tâm sự với con: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù.” → bước chuyển quan trọng trong tình cảm: tình yêu nước lớn hơn tình yêu làng.
3. Niềm vui khi tin đồn được cải chính
Khi nghe tin làng Chợ Dầu không theo giặc, ông Hai như trút được gánh nặng.
Ông sung sướng, hớn hở khoe khắp nơi.
Niềm vui ấy cho thấy tình yêu làng thống nhất, hòa quyện với tình yêu nước, kháng chiến.
4. Nghệ thuật
Tình huống truyện đặc sắc: tin đồn làng theo Tây → thử thách, bộc lộ tình cảm nhân vật.
Miêu tả tâm lý tinh tế, ngôn ngữ giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói nông dân.
Hình tượng ông Hai chân thực, điển hình cho người nông dân thời kháng chiến.
Kết bài
Truyện ngắn “Làng” đã khắc họa thành công hình ảnh người nông dân mới: từ chỗ chỉ gắn bó với lũy tre làng, nay biết đặt tình yêu Tổ quốc lên trên hết. Nhân vật ông Hai vừa chân thực, vừa giàu ý nghĩa biểu tượng, góp phần khẳng định giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Qua đó, Kim Lân đã ca ngợi tinh thần yêu nước, gắn bó với kháng chiến của nhân dân Việt Nam trong buổi đầu gian khổ mà anh dũng.
Bài văn phân tích truyện Làng – Kim Lân
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân được biết đến là “nhà văn của nông thôn”, bởi ông có khả năng nắm bắt và khắc họa tinh tế đời sống, tâm hồn người nông dân. Truyện ngắn Làng (1948) là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, thể hiện sâu sắc tình yêu làng quê gắn liền với tình yêu đất nước trong hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp.
Trước hết, nhân vật trung tâm của truyện là ông Hai – một người nông dân hiền lành, chân chất, gắn bó tha thiết với ngôi làng Chợ Dầu của mình. Đi tản cư, xa làng, ông luôn nhớ về nơi chôn rau cắt rốn. Tình yêu làng của ông hiện lên trong niềm tự hào say sưa khi kể về làng Chợ Dầu: nào là đường làng lát gạch, nào là đình xây to đẹp… Niềm hãnh diện ấy bộc lộ rất tự nhiên, chân thật, tiêu biểu cho tình cảm truyền thống của người nông dân Việt Nam.
Mâu thuẫn, xung đột tâm lí xuất hiện khi ông Hai nghe tin đồn làng Chợ Dầu theo Tây. Tin dữ ấy khiến ông đau đớn, tủi hổ, cảm giác “nghẹn ắng hẳn lại”, “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Tình yêu và niềm tự hào bỗng hóa thành nỗi nhục nhã, dằn vặt. Ông Hai rơi vào bi kịch: yêu làng nhưng làng lại mang tiếng phản bội kháng chiến. Qua đó, Kim Lân đã diễn tả tinh tế những giằng xé nội tâm phức tạp của người nông dân thời kì lịch sử đầy biến động.
Cao trào của truyện là khi ông tâm sự với đứa con nhỏ: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Câu nói ấy khẳng định bước chuyển biến lớn trong tình cảm của người nông dân. Tình yêu làng vẫn tha thiết, nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến mới là tối thượng. Như vậy, Kim Lân đã khắc họa thành công sự thống nhất giữa tình yêu làng và tình yêu nước – một nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt Nam thời kháng chiến.
Nghệ thuật đặc sắc của truyện nằm ở việc xây dựng tình huống bất ngờ, gay cấn; nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế; ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống nông thôn. Tất cả góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Kết lại, truyện ngắn Làng không chỉ thể hiện tình yêu làng quê tha thiết của người nông dân mà còn khẳng định bước phát triển mới: tình yêu làng gắn chặt với tình yêu nước, với kháng chiến. Qua hình tượng ông Hai, Kim Lân đã dựng lên bức chân dung đẹp đẽ, giàu xúc cảm về người nông dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Kim Lân là một trong những nhà văn luôn hướng các tác phẩm của mình vào cuộc sống ở làng quê Việt Nam. Có người đã cho rằng chính từ những bức tranh nông thôn bình dị ấy, ông đã tìm ra phong cách cho riêng mình và đã thể hiện tài năng sáng tạo của một cây bút văn xuôi xuất sắc trong văn học hiện đại Việt Nam.
Những trang viết mộc mạc của ông đã gợi cho chúng ta biết bao điều sâu sắc, để ta thêm yêu mến, trân trọng những người dân lao động trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng là một điển hình như vậy. Có theo dõi diễn biến sự phát triển của cốt truyện hấp dẫn, đặc sắc này mới hiểu được vì sao người đọc yêu mến và khâm phục Kim Lân!
Cũng viết về tình yêu quê hương đất nước trong chiến tranh nhưng tác phẩm của Kim Lân không có bom rơi đạn nổ, không có đổ máu mà đơn thuần chỉ có con người với một tấm lòng và những tình cảm thiêng liêng, sâu sắc. Là một văn bản tự sự, Làng cũng có cốt truyện gồm nhiều sự việc xoay quanh nhân vật chính với những tình huống bất ngờ, đầy kịch tính. Diễn biến tâm lí và sự phát triển tính cách của ông Hai đã làm nên toàn bộ cốt truyện. Ở nhân vật này, tình cảm chủ đạo xuyên suốt tác phẩm là lòng yêu làng xóm quê hương tha thiết, lòng yêu nước sâu nặng !
Ngay từ đầu, tình cảm của ông Hai đã được khắc hoạ khá đậm nét đó là tình yêu làng quê mang đậm tính truyền thống. Làng Chợ Dầu của ông Hai là nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi ông đã gắn bó bằng một thứ tình cảm máu thịt. Ông đã từng tự nhủ lòng “mình sinh sống ở làng này từ tấm bé đến bây giờ. Ông cha cụ kị mình xưa kia cũng ở cái làng này bao nhiêu đời nay…”.
Cho nên, ông không thể không yêu từng con đường đất nhỏ, từng nếp nhà tranh đơn sơ, từng thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay hay con đường làng lát toàn đá tảng… Ông tự hào và hãnh diện về làng mình ở vô cùng. Tình cảm đó trải qua nhiều biến cố lịch sử đã trở thành những thử thách của “lửa thử vàng”, tôi luyện phẩm chất con người.
Trước Cách mạng tháng Tám, vì yêu làng quê mình quá ông đâm biến thành người hay khoe. Nghe những lời giới thiệu đầy vẻ khoe khoang của ông khiến bà con bên ngoại “mắt tròn mắt dẹt” vì kinh ngạc, chúng ta thấy vừa buồn cười lại vừa đáng quý tấm lòng của ông. Ông cứ hồn nhiên coi làng mình là nhất ở trên đời này, dù rằng những thứ để khoe đâu có phải của riêng ông, đâu có đem lợi lại cho bà con dân làng ông… !
Phải cho đến khi Cách mạng về, ý thức được người dân làng ông quá khổ vì bị áp bức nay được đổi đời, có cơm ăn áo mặc, không còn bị nô lệ… thì những phẩm chất đáng quý trước kia nay được thể hiện khác lạ hẳn. Ông vẫn thích kể chuyện làng, vẫn thích khoe một cách say sưa về làng mình.
Nhưng mỗi lời của ông lúc này chứa đầy sự giác ngộ về cách mạng, về ý thức giai cấp mà ông là người trực tiếp tham gia trong đó. Lúc này đây, lòng yêu quý làng quê của người nông dân làng Chợ Dầu đã trở thành một phẩm chất đáng quý, một tính cách đáng trân trọng của nhân vật.
Từng bước một, câu chuyện dẫn dắt chúng ta tới mảnh đất miền trung du, nơi ông Hai cùng bà con dân làng đã đến tản cư. Xa làng, tình cảm đối với quê nhà của người dân tản cư, rõ nhất là qua ông Hai, càng làm nổi bật sự phát triển của cốt truyện. Vì kháng chiến mà họ rời làng đi xa, nhưng có phút giây nào lòng họ không ngóng về quê hương. Nỗi nhớ cồn cào, da diết của họ đã chứa đựng trong câu ca xưa :
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương…
Đến nơi mới này cái bệnh “khoe làng” của ông Hai vẫn không thay đổi. Nó càng sâu sắc hơn để biến thành nét tính cách riêng biệt. Ngày bận rộn sản xuất thì thôi chứ chiều tối ông không sao chịu đựng nổi sự gặm nhấm của nỗi lòng, của tiếng rì rầm đếm tiền hàng của bà vợ. Hình như được chia sẻ đã trở thành nhu cầu bức thiết, làm vơi đi những tâm tư đang chất chứa trong lòng của ông lão vốn quen cởi mở, giãi bày.
Ông lại sang hàng xóm khoe về cái làng nhỏ như để vơi đi phần nào sự mong nhớ. Chỉ có lúc ấy ông mới trở nên có khí sắc, mới thực sự được sống với bao kỉ niệm đẹp đẽ, với niềm tự hào của một tình yêu làng tha thiết, nồng nàn nhất. Sự phát triển của câu chuyện khiến ta xúc động vô cùng trước tình cảm trong sáng, thuần khiết và hồn hậu của một người nông dân chân chất, ít học !
Như vậy, Cách mạng về, kháng chiến bùng nổ không chỉ đem lại sự đổi đời cho nhân vật mà nó còn tạo cơ hội để nhân vật bộc lộ tấm lòng và tình cảm của mình với quê hương, đất nước. Trước, cái sinh phần viên tổng đốc làng ông lúc nào cũng khiến ông hãnh diện. Tình yêu làng của ông lão nhà quê bây giờ đầy kiêu hãnh, vì làng Chợ Dầu không chỉ đẹp mà còn đánh giặc rất hăng.
Có thế, ông với bà con dân làng mới phải đĩ tản cư để dân quân du kích làng ông còn chiến đấu với lũ đầu trâu mặt ngựa đó chứ ! Phải chăng, khi phải rời quê đi tản cư, bao chuyện vui buồn của quá khứ và hiện tại cứ chất chứa tràn đầy và nồng ấm trong ông !
Cái tin thất thiệt làng Chợ Dầu thèo giặc và tin đó được cải chính sau này là những tình huống bất ngờ đầy kịch tính của truyện. Ngòi bút của Kim Lân đã đẩy cốt truyện phát triển đếri đỉnh điểm. Hai tình huống trên được đặt vào phần sau của truyện tựa như có một sức hút lạ kì, lôi cuốn người đọc theo dõi sự phát triển tính cách của một người đã yêu làng bằng cả trái tim mình.
Hình ảnh “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân” như nói lên được tấm lòng đầy nghĩa tình của ông với kháng chiến, với Cụ Hồ. Nỗi buồn khổ’VÌ tin làng phản bội như một nhát dao cứa vào tim ông, làm sụp đổ bao niềm kiêu hãnh về làng quê của mình. Ông thấy tủi hổ cho bản thân ông, cho gia đình ông, cho cái làng Chợ Dầu và cả dân làng nơi đó nữa. Nhà văn diễn tả tâm trạng của nhân vật chính này như một sự bất lực, tuyệt vọng.
Và cũng chính lúc này, ông nhận ra vẻ đẹp của lòng yêu nước ẩn chứa trong tâm hồn những người khác nữa. Từ mụ chủ nhà xấu người xấu nết mà hễ cứ thấy mặt là ông lại ghét cay ghét đắng, hay người đàn bà tản cư ngồi cho con bú với câu chửi đổng bâng quơ và còn bao người dân khác nữa,…
Tất cả họ đều sẵn sàng nhường cơm sẻ áo, chia nhà chia cửa cho đồng bào của mình khi có hoạn nạn, khó khăn, nhất là khi có hoạ ngoại xâm. Nhưng cũng chính họ đã phản ứng quyết liệt trước sự phản bội và không nhân nhượng với bất cứ ai hèn nhát đầu hàng hay chỉ cần là dân của một làng đã đi theo giặc. Mong nhớ và chờ đợi từng ngày từng giờ được trở về làng vậy mà lòng ông thắt lại, và đã dứt khoát với chính mình : “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
Phải chăng, đến đây diễn biến của chuyện đã để cho tình yêu Tổ quốc rộng lớn thực sự vượt lên trên tình yêu làng xóm, quê hương vốn nhỏ bé trong trái tim nhân hậu, giàu tình cảm của ông Hai. Lời tâm sự của ông với cậu con trai út, nhất là những giọt nước mắt cứ trào ra, chảy dài trên khuôn mặt một người vất vả, đã sống qua mấy chế độ, từng trải cũng nhiều. Ông khóc như thế “để ngỏ lòng mình, minh oan lại cho mình”. Bản chất tốt đẹp của chế độ, ý nghĩa cao cả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khiến cho tình cảm truyền thống của người nông dân có nhiều biến chuyển sâu sắc.
Câu chuyện còn đưa ta đến với một chi tiết rất thú vị, độc đáo. Đó là niềm vui sướng, hoan hỉ của ông khi rối rít đi khoe “Tây nó đốt làng tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.”. Có lỗ ông Hai là người duy nhất trên thế giới này vui sướng khi bị đốt nhà cửa, làng xóm. Phải đặt vào hoàn cảnh lịch sử của câu chuyện mới hiểu việc mất mát đó chứng tỏ được tinh thần chống giặc của làng Chợ Dầu quyết liệt như thế nào.
Niềm hạnh phúc của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp là được đánh đổi tất cả để đất nước được độc lập, người dân được sống yên bình, êm ả nơi quê cha đất tổ của mình. Không khí thiêng liêng của thời khắc lịch sử đã xoá bỏ được những gì vốn nhỏ hẹp, tư hữu có từ lâu đời ở người nông dân.
Phải chăng, Ê-ren-bua đã nói đúng trong trường hợp này, tình cảm của các nhân vật trong truyện khác nào “dòng suối đã đổ ra sông, dòng sông lại đã đổ ra biển” để tình yêu làng xóm quê hương mở rộng ra hòa vào tình yêu Tổ quốc, tình yêu cách mạng lớn lao.
Toàn bộ tác phẩm đã nêu lên một ý nghĩa sâu sắc, đó là sự thay đổi lớn lao về nhận thức của người nông dân trong thời kì đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Cốt truyện không phức tạp, dài dòng, ngược lại rất đơn giản, dễ hiểu nhưng đầy bất ngờ, lôi cuốn.
Từ những việc tưởng như bình thường nhỏ bé nhờ sự phát triển hợp lí và tài tình của diễn biến cốt truyện mà chứa đựng bên trong những ý nghĩa hàm ẩn sâu sắc, lớn lao. Để cốt truyện phát triển song hành cùng diễn biến tâm lí nhân vật là một thành công trong phong cách sáng tác của nhà văn. Phải nói rằng, Kim Lân rất giỏi trong việc “đãi cát” để “lấy được vàng”.
Làng khép lại trong một dư âm nhẹ nhàng của sự hòa quyện giữa tình yêu làng quê với tình yêu đất nước của người nông dân nói riêng và người Việt Nam nói chung.
Quảng cáo
Bạn cần hỏi gì?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
247353 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
76679 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
61000 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
60815 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
51939 -
46237
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
43324 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
40619 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38924
