cứu tôi
Quảng cáo
3 câu trả lời 298
Bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử: Cuộc gặp gỡ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và thiếu niên nghèo Trần Văn Ơn
Một trong những sự việc đáng nhớ trong cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là câu chuyện về cuộc gặp gỡ với một thiếu niên nghèo tên Trần Văn Ơn. Đây là một sự việc có thật, không chỉ thể hiện tấm lòng nhân ái của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn phản ánh lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn lịch sử đầy cam go, thử thách.
Vào năm 1945, khi đất nước đang đứng trước những biến động lớn, vào thời điểm nước Việt Nam đang chìm trong khói lửa chiến tranh, Trần Văn Ơn, một thiếu niên nghèo sống tại Hà Nội, đã tham gia vào phong trào học sinh, sinh viên đấu tranh chống lại chế độ thực dân Pháp. Mặc dù còn rất trẻ, nhưng Trần Văn Ơn đã thể hiện sự dũng cảm và tinh thần yêu nước mãnh liệt.
Vào một ngày tháng 3 năm 1945, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra quyết liệt, Trần Văn Ơn tham gia vào một cuộc biểu tình chống lại chế độ thực dân Pháp tại Hà Nội. Tuy nhiên, trong lúc cuộc biểu tình đang diễn ra, Trần Văn Ơn đã bị thực dân Pháp bắt giữ và bị xử án rất nghiêm khắc. Sự việc này gây chấn động lớn trong dư luận thời bấy giờ, vì một thiếu niên mới chỉ 14 tuổi mà dám đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.
Chứng kiến sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vô cùng xúc động và quyết định đến thăm gia đình của Trần Văn Ơn. Bác Hồ đã đến tận nơi, thăm hỏi và an ủi mẹ của Trần Văn Ơn, đồng thời bày tỏ sự kính trọng và ca ngợi tinh thần yêu nước, bất khuất của Trần Văn Ơn. Bác nói: “Ơn hy sinh của cháu sẽ không vô ích, chúng ta sẽ giành được độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Hãy luôn tự hào về những gì cháu đã làm!”
Cuộc gặp gỡ này là một sự kiện đặc biệt trong cuộc đời Hồ Chí Minh, thể hiện tình yêu thương sâu sắc của Bác đối với những người con của đất nước, những người dũng cảm đấu tranh cho độc lập và tự do. Trần Văn Ơn, tuy tuổi còn nhỏ, nhưng đã trở thành một biểu tượng cho lòng yêu nước và tinh thần kiên cường của thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau sự kiện này, Trần Văn Ơn trở thành một hình mẫu cho nhiều thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên trong cả nước. Sự hy sinh của cậu đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh của giới trẻ, góp phần tạo nên làn sóng đấu tranh mạnh mẽ trong cả nước, thúc đẩy cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.
Kết luận, câu chuyện về Trần Văn Ơn và cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một sự kiện lịch sử mà còn là bài học về tinh thần yêu nước, lòng kiên cường và sức mạnh của thế hệ trẻ. Tấm gương của Trần Văn Ơn, cùng với sự quan tâm, động viên của Bác Hồ, đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong lòng mỗi người dân Việt Nam, nhất là thế hệ thanh niên, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bài văn: Lời Dặn Dò Bên Gốc Đa Đền Hùng
Trong dòng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ kính yêu mà còn là một biểu tượng bất diệt cho tinh thần yêu nước, ý chí độc lập và lòng nhân ái bao la. Có vô vàn câu chuyện cảm động và ý nghĩa về cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, nhưng một trong những sự kiện để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong tâm trí bao thế hệ người Việt chính là chuyến thăm Đền Hùng của Bác vào tháng 9 năm 1954 và lời căn dặn thiêng liêng của Người tại đây.
Đó là vào một buổi sáng mùa thu tháng 9 năm 1954, chỉ ít lâu sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội địa cầu. Trên đường từ chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ cùng các đồng chí trong Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết định dừng chân thăm Đền Hùng tại Phú Thọ - cội nguồn linh thiêng của dân tộc. Khung cảnh Đền Hùng khi ấy vừa trang nghiêm, cổ kính, vừa mang không khí náo nức của những ngày đất nước sắp hoàn toàn giải phóng.
Tại đây, Bác đã có buổi nói chuyện thân mật với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên phong (Sư đoàn 308) - đơn vị chủ lực lập nhiều chiến công vang dội, đang trên đường về nhận nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô. Buổi gặp mặt không diễn ra trong hội trường trang trọng mà ngay tại cửa Đền Giếng, dưới bóng mát của một cây đa cổ thụ. Bác xuất hiện giản dị trong bộ quần áo kaki quen thuộc, phong thái ung dung, gần gũi. Người ân cần hỏi thăm sức khỏe, tình hình đời sống và nhiệm vụ của các chiến sĩ.
Trong không khí ấm áp và xúc động ấy, Bác đã ôn lại lịch sử vẻ vang hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta, từ thời các Vua Hùng khai quốc. Người chỉ tay ra xa, bao quát cả non sông gấm vóc và trầm ấm căn dặn các cán bộ, chiến sĩ:
"Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước."
Câu nói giản dị nhưng hàm chứa ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Đó không chỉ là sự ghi nhận công lao trời biển của tổ tiên mà còn là lời nhắc nhở, là trách nhiệm thiêng liêng mà Bác giao phó cho thế hệ hiện tại và mai sau. "Dựng nước" đã khó, "giữ nước" lại càng gian nan hơn, đòi hỏi sự đoàn kết, trí tuệ, lòng dũng cảm và tinh thần hy sinh không ngừng. Lời căn dặn của Bác như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt, kết nối quá khứ hào hùng với hiện tại vẻ vang và tương lai tươi sáng của dân tộc. Nó khẳng định chân lý: để bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do vừa giành được, chúng ta phải luôn khắc ghi và phát huy truyền thống yêu nước quý báu của cha ông.
Lời Bác dạy năm ấy tại Đền Hùng đã trở thành kim chỉ nam, là nguồn động lực tinh thần to lớn cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này. Mỗi người lính có mặt trong buổi nói chuyện lịch sử đó đều cảm thấy vinh dự và ý thức sâu sắc hơn về trọng trách của mình.
Sự kiện Bác Hồ về thăm Đền Hùng và lời căn dặn bất hủ của Người là một minh chứng sống động cho tình cảm sâu nặng, lòng biết ơn vô hạn của Bác đối với tổ tiên và trách nhiệm lớn lao của Người trước non sông, đất nước. Câu chuyện không chỉ là một ký ức lịch sử quý giá mà còn là bài học sâu sắc về lòng yêu nước, về ý thức giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho muôn đời sau. Mỗi lần nhắc đến, chúng ta lại càng thêm kính yêu và tự hào về Bác, vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam
- VỀ KIM ĐỒNG
Đất nước có được nền hòa bình ngày hôm nay, không biết bao cha anh đã ngã xuống, không tiếc máu xương để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Anh Kim Đồng là một tấm gương sáng trong số những người anh hùng như vậy.
Anh Kim Đồng là người dân tộc Tày. Cha mất sớm, anh sống cùng mẹ - một người phụ nữ đảm đang nhưng ốm yếu. Sống trong cảnh đất nước bị xâm lược nên từ nhỏ, Kim Đồng đã dũng cảm, quyết đoán, mạnh mẽ, có tinh thần yêu nước, căm thù giặc. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng anh rất hăng hái làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Anh được bầu làm đại đội trưởng đầu tiên của Đội Nhi đồng cứu quốc. Anh không ngại khó khăn, thử thách, nguy hiểm luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong một lần làm nhiệm vụ, anh bị giặc Pháp bắn và hi sinh. Khi ấy, anh mới chỉ 14 tuổi. Đã có rất nhiều bài thơ, bài hát được sáng tác để ghi nhớ công ơn của anh.
Hình ảnh anh Kim Đồng sẽ luôn sáng mãi, là tấm gương cho thanh thiếu niên Việt Nam về tinh thần yêu nước sâu sắc, sự thông minh, gan dạ, lòng dũng cảm, trung kiên với Tổ quốc.
- VỀ HÙNG VƯƠNG
Tháng tư vừa rồi, trường em có tổ chức một buổi tham quan nằm trong chuỗi hoạt động ngoại khóa của trường. Điểm đến lần này là Đền Hùng tại Việt Trì-Phú Thọ. Đây là nơi thờ phụng các đời Vua Hùng và tôn thất của nhà vua. Nơi đây gắn với Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức hàng năm vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch. Đây là một dịp để thế hệ con cháu đến viếng đền, tưởng nhớ đến những người đã có công dựng nước.
Em đã được nghe nhiều câu chuyện về các Vua Hùng qua các sự tích nổi tiếng như Sự tích bánh chưng bánh dày, Sơn Tinh Thủy Tinh… và thấy được sự uy nghiêm và trí tuệ của các vị vua. Điều đó khiến tôi càng mong đợi chuyến đi này hơn.
Dưới chân núi là khung cảnh uy nghiêm, hùng vĩ của núi Nghĩa Lĩnh với rừng cây và sương mù bao phủ. Nơi thờ các vị vua được đặt trên núi với ba đền chính là đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Đền Hạ tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Đền Trung là nơi các vị vua họp bàn chính sự. Đền Thượng là lăng thờ Hùng Vương thứ sáu. Lễ hội đền Hùng được tổ chức hàng năm bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác… Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi Thiêng.
Trước khi đi tham quan các đền, chúng tôi được làm lễ dâng hương và nghe diễn thuyết về các vị Vua Hùng. Không khí trang nghiêm, hào hùng ấy khiến tôi không khỏi tự hào về lịch sử dân tộc mình. Họ đã dựng nước, giữ nước để đời sau con cháu được hưởng thụ nền độc lập, hòa bình ấy. Và nay chúng em đến đây để thể hiện lòng biết ơn, sự tôn trọng của mình đối họ, thể hiện đúng truyền thống đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Họ đã gây dựng nền móng cho nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa hiện tại và chúng em đều biết ơn điều đấy.
Sau đó, chúng em được đi thăm các đền thờ vua trên núi. Cách trang trí, sắp xếp các di vật đều được bố trí một cách ngay ngắn, trang nghiêm. Em ấn tượng với tấm bia ở đền Hạ khắc dòng chữ của Bác Hồ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta cùng nhau giữ lấy nước.” Nó như một lời hứa hẹn Bác thay thế hệ trẻ nói lên trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước.
Đó thực sự là một chuyến đi đầy bổ ích và ý nghĩa. Mặc dù nó chỉ kéo dài trong một buổi sáng ngắn ngủi nhưng nó đã giúp em hiểu ra trách nhiệm của mình đối với đất nước. Phải biết kính trọng, biết ơn thế hệ đi trước đặc biệt là các vị Vua Hùng và phải ghi nhớ:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.”
- VỀ LÝ CÔNG UẨN
Lý Công Uẩn người làng cổ Pháp thuộc Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay ở làng Đình Bảng vẫn còn có lăng và đền thờ các vua nhà Lý.
Tục truyền rằng Công uẩn không có cha; mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiên Sơn (làng Tiên Sơn, phủ Từ Sơn) , đêm về nằm mộng thấy "đi lại" với thần nhân, rồi có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi, đứa bé càng khôi ngô tuấn tú; gia đình đem cho nhà sư ở chùa cổ Pháp tên là Lý Khánh Văn làm con nuôi. Lý Công uẩn được học hành chữ Nho, kinh Phật và võ nghệ từ nhỏ, lớn lên dưới mái chùa, trở thành một tài trai văn võ siêu quần.
Ngoài 20 tuổi, Lý Công uẩn đã làm võ tướng dưới triều vua Lê Đại Hành, từng lập công to trong trận Chi Lăng (981) đại phá quân Tống xâm lược, chém đầu tướng giặc Hầu Nhân Bảo. Về sau, ông giữ chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ, nắm trong tay toàn bộ binh quyền. Đức trọng tài cao, ông được quần thần và tướng sĩ rất kính phục. Năm 1005, Lê Đại Hành băng hà. Ngôi vua được truyền cho Lê Long Việt. Chỉ 3 ngày sau, Lê Long Đĩnh giết anh, giành lấy ngai vàng. Lê Long Đĩnh là một tên vua vô cùng bạo ngược khác nào Kiệt, Trụ ngày xưa. Hắn hoang dâm vô độ, nên mắc bệnh không ngồi được; đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Vua Ngọa Triều. Cuối năm 1009, Lê Ngọa Triều chết. Năm đó, Lý Công uẩn đã 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm rồi; quân thần và tầng lớp tăng lữ suy tôn ông lên ngôi báu, mở đầu triều đại nhà Lý (1010- 1225).
Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế vào đầu xuân 1010, tức là vua Lý Thái Tổ nhà Lý. Nhà vua trị vì được 19 năm, thọ 55 tuổi, băng hà năm 1028.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK52970
-
52885
-
39779
-
Hỏi từ APP VIETJACK37277
