Quảng cáo
2 câu trả lời 287
Ở một làng quê nhỏ nằm dưới chân núi, có một cánh đồng hoa cúc trắng rộng bát ngát. Hoa cúc trắng là biểu tượng của tình yêu chân thành, trong sáng và thuần khiết. Tại đó, có một cô gái tên Lan, mang trong mình vẻ đẹp mộc mạc như những cánh cúc trắng. Cô không nổi bật về sắc đẹp, nhưng lại sở hữu một trái tim nhân hậu và lòng kiên cường bền bỉ.
Lan sống cùng mẹ trong một căn nhà nhỏ bên cánh đồng cúc. Họ là những người trồng hoa cúc duy nhất trong làng. Mỗi mùa hoa nở, cánh đồng hoa của Lan lại tỏa ra một mùi hương dịu ngọt, khiến ai đi qua cũng phải dừng lại ngắm nhìn và hít thở mùi thơm thanh khiết ấy.
Câu chuyện bắt đầu vào một buổi sáng mùa thu, khi những cơn gió nhẹ mang theo hơi lạnh từ dãy núi xa. Lan đang tưới nước cho những luống hoa cúc trong vườn thì nghe tiếng bước chân vội vã. Quay lại, cô nhìn thấy một chàng trai lạ mặt, đang đi về phía cô.
“Cô có phải là Lan, cô gái trồng hoa cúc trắng không?” Chàng trai hỏi, ánh mắt sáng ngời như những vì sao trên bầu trời đêm.
Lan ngập ngừng gật đầu. “Vâng, tôi là Lan. Anh tìm tôi có việc gì ạ?”
“Chị tôi rất thích hoa cúc trắng. Cô có thể bán cho tôi một ít không?”
Lan nhìn chàng trai với ánh mắt tò mò. Cô chưa bao giờ gặp ai hỏi mua hoa cúc trắng với niềm yêu thích đặc biệt như vậy. “Anh muốn mua hoa cúc trắng làm gì ạ?” Cô hỏi.
Chàng trai nở nụ cười buồn. “Chị tôi bị bệnh nặng, bác sĩ bảo không còn nhiều thời gian. Tôi hy vọng hoa cúc trắng có thể giúp chị ấy cảm thấy bình yên hơn trong những ngày cuối đời.”
Lan im lặng nhìn chàng trai, lòng bỗng cảm thấy một nỗi thương cảm sâu sắc. Hoa cúc trắng, với vẻ đẹp giản dị nhưng kiên cường, sao mà giống như những gì anh trai nói về chị mình. Cũng như những cánh cúc trắng nở vào mùa đông lạnh giá, chị anh ấy cũng đang đối diện với những tháng ngày cuối cùng trong cuộc đời.
“Anh đợi một lát, tôi sẽ chuẩn bị cho anh một bó hoa.” Lan nói và vội vã chạy vào trong nhà. Một lúc sau, cô trở ra với một bó cúc trắng tuyệt đẹp, những cánh hoa tinh khôi, mỏng manh như thể chúng được thắp sáng từ ánh trăng.
“Cảm ơn cô rất nhiều.” Chàng trai nhận bó hoa với ánh mắt biết ơn, rồi quay bước đi về phía nhà mình.
Ngày hôm đó, Lan đứng lặng lẽ nhìn theo bóng chàng trai khuất dần phía cuối con đường. Trong lòng cô, một cảm giác bâng khuâng lạ lùng. Dù không quen biết, nhưng câu chuyện của anh trai và chị gái ấy khiến cô thấy như mình cũng đang chia sẻ một phần nỗi đau của người lạ.
Thời gian trôi qua, cánh đồng cúc trắng của Lan vẫn ngày ngày nở hoa, nhưng trong lòng cô lại có một cảm giác trống vắng khó tả. Những cánh cúc trắng vẫn mãi nở đều đặn, nhưng mỗi lần ngắm nhìn chúng, cô lại nghĩ đến người con gái đang nằm trong căn phòng bệnh, đang chờ đợi một phép màu nào đó.
Một buổi chiều, khi ánh hoàng hôn đỏ rực nhuộm cả bầu trời, Lan đang hái những bông cúc trắng cuối mùa thì lại gặp chàng trai hôm trước. Lần này, anh không mang theo một bó hoa mà trên tay là một chiếc hộp nhỏ.
“Cảm ơn cô một lần nữa, Lan. Hoa cúc trắng đã mang lại sự bình yên cho chị tôi. Chị ấy ra đi trong sự thanh thản và nhẹ nhàng. Đây là chiếc vòng cổ mà chị tôi đã đeo suốt những năm tháng bệnh tật. Tôi muốn gửi lại cho cô như một lời cảm ơn.” Chàng trai nói, giọng nghẹn ngào.
Lan nhận lấy chiếc hộp, mở ra, bên trong là một chiếc vòng cổ tinh xảo, được làm từ những viên ngọc trắng óng ánh. Chiếc vòng cổ này chắc chắn rất quý giá, nhưng Lan không thể nào hiểu nổi vì sao anh lại muốn tặng nó cho mình.
“Anh… Anh chắc chắn chứ?” Lan ngập ngừng hỏi.
“Đúng vậy. Chị tôi luôn nói rằng, hoa cúc trắng tượng trưng cho tình yêu chân thành và lòng kiên cường. Chị ấy mong rằng trong cuộc sống này, có người sẽ hiểu được giá trị của những điều giản dị, như cô, như hoa cúc trắng.”
Lan nghẹn ngào. Cô không biết phải nói gì, chỉ biết cúi đầu nhận lấy chiếc vòng cổ và cảm thấy lòng mình tràn đầy sự cảm động. Cúc trắng không chỉ là hoa của mùa đông, mà còn là hoa của tình yêu, của sự hy sinh thầm lặng và tình người ấm áp.
Ngày hôm đó, cánh đồng hoa cúc trắng bừng lên trong nắng chiều. Lan ngồi giữa đồng hoa, cảm nhận sự an bình trong lòng, như thể những bông cúc trắng đang nở ra từ chính trái tim mình. Mặc dù không thể cứu sống người con gái ấy, nhưng Lan biết rằng hoa cúc trắng sẽ mãi là biểu tượng của sự hi vọng, tình yêu và lòng kiên cường.
Và từ đó, cánh đồng hoa cúc trắng của Lan không chỉ mang lại hương thơm cho làng, mà còn chứa đựng một câu chuyện về tình người, về những yêu thương thầm lặng, luôn tỏa sáng dù trong những lúc khó khăn nhất.
Có nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi một truyền kỳ về người anh hùng ở làng Gióng, được truy phong là Phù Đổng Thiên Vương, mà nhân dân Việt Nam ta đời đời nhớ ơn.
Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, ở một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng nghèo, sống rất tình nghĩa, phúc đức, cuộc sống khó khăn không khiến họ mệt mỏi hay nản chí thế nhưng tuổi cả hai ngày một lớn mà mong mỏi mãi cũng không có lấy một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai vợ chồng lấy làm buồn lòng lắm, hàng xóm cũng cảm thấy xót xa cho họ. Một hôm trời nắng to, bà lão theo lệ thường ra ruộng làm cỏ, trong lúc đang cặm cụi nhổ cỏ thì bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân người đặc biệt to lớn. Không biết trời xui đất khiến thế nào bà lại đưa chân mình vào ướm thử, sau chuyện ấy bà cũng quên khuấy đi, ba tháng sau bà bỗng cảm thấy người mệt mỏi, chán ăn, đến thầy lang khám bệnh thì hay tin mình có thai. Khi nghe tin cả hai vợ chồng đều rất đỗi vui mừng mà sung sướng, bởi ước nguyện bấy lâu đã trở thành hiện thực, gia đình nhỏ của hai vợ chồng dần trở nên ấm áp hơn cả, ngày ngày chờ đợi đứa con bé bỏng ra đời trong hạnh phúc. Nhưng lạ thay, đã qua chín tháng mười ngày tròn mà người vợ vẫn chưa trở dạ, hai vợ chồng lấy làm lo lắng, đợi mãi đến khi cái thai được tròn mười hai tháng, thì đứa trẻ mới chịu chui từ bụng mẹ ra. Vừa ra đời người ta đã nhận xét rằng đây là một đứa bé có tư chất hơn người, bởi vẻ thông minh sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, vợ chồng ông lão nghe thứ thì lại càng vui mừng hơn cả, đặt cho con cái tên là Gióng, cho dễ nuôi. Cuộc sống một gia đình ba người cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng lạ thay mãi đến ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết đi biết đứng, cha mẹ đặt đâu thì em ngồi đấy, em cũng chưa hề mở miệng nói một câu nào, điều ấy làm cho hai vợ chồng sốt ruột, bồn chồn không yên vì sợ con mình có bệnh lạ.
Năm ấy, giặc ở phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược, giày xéo mảnh đất Lạc Việt, thế giặc mạnh, vua Hùng cùng với các Lạc Hầu, Lạc Tướng rất lấy làm lo lắng. Trước tình hình ấy vua bèn nảy ra một ý, cho sứ giả truyền tin tuyển mộ người tài, đức ra giúp nước. Khi sứ giả vừa loan tin đến đầu làng, thì Gióng bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con”, người mẹ tuy sửng sốt nhưng vẫn chạy ra mời sứ giả vào. Vào đến nơi, sứ giả chỉ thấy một cậu bé ba tuổi và hai vợ chồng đã tuổi xế chiều, thì lấy làm tức giận, tưởng mình bị đùa giỡn, thế nhưng Gióng đã kịp lên tiếng: “Giặc đã hoành hành khá lâu, ta xin nguyện vì bệ hạ, vì non sông xung phong đánh giặc, khẩn cầu ngài về tâu với nhà vua chế tạo cho ta một chiếc roi sắt từ loại sắt tốt nhất, đảm bảo đánh trăm trận mà không gãy, ban cho ta một con chiến mã bằng sắt nặng ngàn cân và một bộ giáp sắt nặng trăm cân, giáo mác xuyên không thủng. Như thế ta có thể yên tâm diệt giặc”. Sứ giả nghe thế thì lấy làm mừng rỡ vì đích thị đây là nhân trung long phượng, là bậc kỳ tài hiếm có nên mới có thể có khẩu khí hiên ngang, oai hùng của võ tướng như thế. Kể từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm gạo ăn cũng không đủ, dân làng người nhà nhà chung tay góp cơm, góp gạo cho Gióng ăn, thầm mong chàng sớm ngày đánh tan lũ giặc xâm phạm bờ cõi.
Mười ngày sau, mọi thứ mà Gióng yêu cầu đều được mang tới cả, lúc này đây từ một đứa bé ba tuổi, Gióng đã trở thành chàng trai cao lớn vượt trội, tầm vóc phi phàm, thân hình cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, từ biệt quê hương và lên đường diệt giặc, trước khi đi Gióng quay lại nhìn cha mẹ “Kiếp này đa tạ phụ mẫu đã sinh dưỡng!”, rồi hướng thẳng phía trước mà đi, con ngựa sắt vốn tưởng là khối sắt không có linh tính, thế nhưng lúc này đây nó lại phát ra tiếng hí vang trời, rồi phóng vụt đi, chốc lát chỉ còn lại cái bóng mờ mờ của người anh hùng, lẫn trong đám bụi thổi tung. Ngựa chạy một đường đến nơi đóng quân của giặc, ngựa đi đến đâu phun lửa đến đấy, thiêu trụi hết lương thực và lều trại của quân địch, chúng hoảng hồn bỏ cả vũ khí mà chạy thoát thân, kẻ giẫm đạp lên nhau, người thì chết dưới vó ngựa. Tráng sĩ vung roi sắt quất liên hồi vào lũ giặc cướp nước, khiến chúng chết như ngả rạ dưới vó ngựa, thế nhưng giặc quá đông, sau ba ngày chinh chiến thì không may roi sắt gãy làm đôi. Lúc này đây tráng sĩ vừa đuổi giặc đến khu vực có những lũy tre già hàng mấy chục tuổi, ngựa sắt phun lửa làm loài tre ấy trở nên vàng bóng. Nhanh trí, tráng sĩ đã dùng sức mạnh nhổ hẳn cây tre to nhất bên đường làm vũ khí thay roi sắt, kỳ diệu thay vốn chỉ là cây cỏ thế nhưng trên tay tráng sĩ, cay tre bỗng trở nên mạnh mẽ không kém gì so với những thứ vũ khí sắc bén khác. Sau bảy ngày chiến đấu, cuối cùng đất nước ta cũng sạch bóng quân thù, chỉ còn lại hàng vạn xác chết chốn sa trường, khung cảnh tiêu điều tan hoang.
Tráng sĩ sau khi diệt giặc thì thúc ngựa chạy vào rừng sâu, tìm nơi có dòng suối nguồn trong trẻo chưa ai biết đến, tắm rửa sạch sẽ, cởi bỏ lại bộ giáp sắt, như một cách báo cáo hoàn thành sứ mệnh, rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. Vua Hùng để tưởng nhớ công ơn đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và cho xây lập đền thờ ngay tại quê nhà, để đời đời được hưởng nhang khói của nhân dân.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
247033 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
76509 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
60914 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
60669 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
51848 -
46168
-
Đã trả lời bởi chuyên gia
43267 -
Đã trả lời bởi chuyên gia
40569 -
Hỏi từ APP VIETJACK
Đã trả lời bởi chuyên gia
38190
