Quảng cáo
3 câu trả lời 481
Giới thiệu tỉnh Gia Lai trước và sau thời kỳ đổi mới
Tỉnh Gia Lai, nằm ở vùng Tây Nguyên, là một trong những địa phương có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng của cả nước. Trước và sau thời kỳ đổi mới (1986), Gia Lai đã có những thay đổi rõ rệt, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và cơ sở hạ tầng.
Trước thời kỳ đổi mới (trước 1986):
Trước khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, tỉnh Gia Lai vẫn còn là một vùng đất nghèo nàn và thiếu thốn. Sau khi giải phóng miền Nam (1975), Gia Lai trở thành một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, nhưng nền kinh tế của tỉnh chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp, với sản xuất nông sản chính là lúa, ngô, khoai, sắn, cùng với chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tuy nhiên, các hình thức canh tác này chủ yếu còn mang tính chất tự cung tự cấp, năng suất thấp và thiếu tính bền vững.
Cơ sở hạ tầng của Gia Lai cũng còn rất kém phát triển. Các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt đều chưa được đầu tư đáng kể, gây khó khăn cho việc giao thương và phát triển kinh tế. Các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa tại nhiều khu vực vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân.
Đặc biệt, trong giai đoạn này, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Gia Lai còn gặp nhiều khó khăn. Một phần lớn dân cư vẫn duy trì phương thức canh tác truyền thống, điều kiện sống khó khăn, và chưa được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản.
Sau thời kỳ đổi mới (sau 1986):
Kể từ khi công cuộc đổi mới được triển khai từ năm 1986, Gia Lai đã có những bước tiến vượt bậc, đặc biệt trong phát triển kinh tế và xã hội. Chính sách mở cửa, đổi mới của Đảng và Nhà nước đã giúp tỉnh có cơ hội thu hút các nguồn lực đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Gia Lai đã chuyển mình mạnh mẽ từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang một nền nông nghiệp hàng hóa. Các cây trồng chủ lực như cà phê, cao su, hồ tiêu, và các loại cây công nghiệp khác đã được mở rộng diện tích, mang lại thu nhập cao cho người dân và đóng góp quan trọng vào nền kinh tế của tỉnh. Cà phê Gia Lai, đặc biệt, trở thành một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Ngoài nông nghiệp, Gia Lai cũng đẩy mạnh công nghiệp và dịch vụ. Các khu công nghiệp, nhà máy chế biến nông sản, và các cơ sở sản xuất đã được xây dựng, tạo ra việc làm cho nhiều lao động, góp phần phát triển nền kinh tế đa dạng. Tỉnh Gia Lai cũng đã chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, như nâng cấp và mở rộng các tuyến giao thông, cải thiện hệ thống điện, nước sạch và các dịch vụ công cộng khác.
Về mặt xã hội, đời sống người dân Gia Lai đã có sự cải thiện rõ rệt. Tỉnh đã tập trung phát triển giáo dục, với nhiều trường học được xây mới và nâng cấp, giúp con em đồng bào các dân tộc thiểu số có điều kiện học tập tốt hơn. Các cơ sở y tế cũng được đầu tư và nâng cấp, giúp cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa.
Gia Lai còn chú trọng đến việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số, tạo ra những điều kiện thuận lợi để đồng bào các dân tộc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Các chương trình xoá đói giảm nghèo đã giúp giảm tỷ lệ hộ nghèo trong tỉnh, nhất là ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ một tỉnh nghèo nàn, thiếu thốn trước thời kỳ đổi mới, Gia Lai đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ và đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội. Những thay đổi này không chỉ giúp nâng cao đời sống của người dân mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của khu vực Tây Nguyên và cả nước. Tuy còn đối mặt với nhiều thách thức, nhưng với những nền tảng đã xây dựng, Gia Lai đang tiếp tục trên con đường phát triển bền vững, hội nhập và phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.
(GLO)- Ngày 24-5-1932, tỉnh Pleiku (Gia Lai ngày nay) chính thức được thành lập. Trải qua bao thăng trầm lịch sử trong 90 năm hình thành và phát triển, bộ mặt của tỉnh đã có sự đổi thay toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Về tên gọi Gia Lai, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất Gia Lai là biến âm của từ Gia Rai (Jrai), tên của tộc người sinh sống lâu đời trên vùng cao nguyên Pleiku và vùng Cheo Reo. Trong công trình nghiên cứu “Sổ tay địa danh Việt Nam” (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2002), tác giả Đinh Xuân Vịnh viết: “Đạo Gia Lai ở Tây Nguyên thành lập năm 1932, tách từ tỉnh Kon Tum ra, đầu tiên gọi là đạo Trà Cú, Pháp gọi là Pleiku, lấy tên lỵ sở đạo mà gọi, sau đổi tên là đạo Gia Lai, lấy tên dân tộc thượng Gia Rai”. Trước đó, trong “Kon Tum tỉnh chí”, in trong Tạp chí Nam Phong số 191, ấn hành năm 1933, Quản đạo Kon Tum Võ Chuẩn viết: “Ở phía Nam tỉnh Kon Tum có người Già-rài (Djarai) nên lấy tên Già rài đặt cho đạo Gia Lai”.
Thắng cảnh Biển Hồ (TP. Pleiku) nhìn từ trên cao. Ảnh: Phạm Quý
Sự hình thành của tỉnh Gia Lai gắn liền với tiến trình xâm lược của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh chống xâm lược của đồng bào các dân tộc Bắc Tây Nguyên. Sau khi chính thức đô hộ Việt Nam (bằng hòa ước Giáp Thân 1884) thực dân Pháp từng bước áp dụng chính sách “chia để trị” đối với Gia Lai và đặt Gia Lai cũng như các tỉnh Tây Nguyên khác trực thuộc Trung Kỳ (miền cao nguyên Trung Kỳ). Việc chinh phục Gia Lai nói riêng và Tây Nguyên nói chung của thực dân Pháp được xem như hoàn tất với sự kiện 16-10-1898, Khâm sứ Trung Kỳ là Boulloche đưa yêu sách buộc triều đình Huế phải để cho người Pháp phụ trách vấn đề kinh tế và an ninh toàn vùng Tây Nguyên. Triều đình nhà Nguyễn phải nhượng bộ. Từ đó, Tây Nguyên là vùng đất thuộc quyền bảo hộ trực tiếp của thực dân Pháp.
Ngày 4-7-1905, theo Nghị định Toàn quyền Đông Dương, vùng núi phía Tây tỉnh Bình Định, Phú Yên bao gồm toàn bộ khu vực cư trú của đồng bào Xơ Đăng, Bahnar, Jrai được lập thành một tỉnh tự trị, lấy tên là Plei-Kou-Der. Tỉnh lỵ của Plei-Kou-Der được đặt tại một làng Jrai có tên là Pleiku. Nghị định Toàn quyền ngày 25-4-1907 đã xóa tỉnh Plei-Kou-Der. Đất đai của tỉnh này được chia làm 2 phần, một phần lập thành đại lý hành chính Kon Tum, nhập vào tỉnh Bình Định; phần còn lại lập thành đại lý hành chính Cheo Reo nhập vào tỉnh Phú Yên.
Ngày 9-2-1913, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định số 214 và 215, lập tỉnh Kon Tum trên cơ sở đất đai của tỉnh Plei-Kou-Der cũ gồm toàn bộ đại lý Kon Tum (tách ra từ tỉnh Bình Định), đại lý Cheo Reo (tách ra từ tỉnh Phú Yên) cộng thêm đại lý Đak Lak (nguyên là một tỉnh hạ xuống thành đại lý). Ngày 24-5-1925, theo Nghị định Toàn quyền, đại lý hành chính Pleiku thuộc tỉnh Kon Tum được thành lập. Tiếp đến, Nghị định Khâm sứ Trung Kỳ, ngày 3-12-1929, thị xã Pleiku và thị xã Kon Tum được thành lập.
Ngày 24-5-1932, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định tách một phần đất phía Nam tỉnh Kon Tum (gồm đại lý Pleiku và đại lý Cheo Reo) để thành lập tỉnh Pleiku. Tòa Đại lý hành chính Pleiku theo đó cũng được đổi thành Tòa Công sứ. Đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tỉnh Pleiku có: thị xã Pleiku, huyện An Khê, huyện Pleikli, huyện Chư Ty và huyện Cheo Reo. Ngày 12-12-1932, trên địa bàn tỉnh Pleiku, Vua Bảo Đại ra Chỉ dụ lập đạo Gia Lai (chủ yếu là đất đai của đại lý Pleiku cũ) và bổ nhiệm 1 Quản đạo, 1 Kinh lịch và 3 Thừa phái bên cạnh quan “Công sứ” của Pháp để quản lý bộ phận người Kinh.
Từ khi được thành lập đến Cách mạng Tháng Tám 1945, tên tỉnh giữ nguyên là Pleiku. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tên tỉnh được chính quyền cách mạng gọi là Gia Lai. Tháng 6-1946, thực dân Pháp tái chiếm vùng đất Gia Lai và đặt tên tỉnh là Pleiku. Đối với chính quyền Sài Gòn, từ năm 1954 cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), tên tỉnh vẫn là Pleiku, nhưng diện mạo của tỉnh đã nhiều lần thay đổi. Ngày 1-9-1962, theo Sắc lệnh số 186, chính quyền Sài Gòn tách một phần phía Nam tỉnh Pleiku (thuộc Cheo Reo) và một phần phía Bắc tỉnh Đak Lak (huyện Thuần Mẫn) thành lập tỉnh Phú Bổn. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Hậu Bổn (nay là thị xã Ayun Pa). Tỉnh Phú Bổn tồn tại cho đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Về phía ta, trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, tên tỉnh vẫn giữ là Gia Lai. Ngày 15-4-1950, theo Nghị định số 7/NĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ta, hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum hợp nhất thành một tỉnh lấy tên là tỉnh Gia-Kon. Sau Hiệp định Genève, tỉnh Gia-Kon lại được chia tách thành hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Những năm 1954-1975 vẫn giữ tên tỉnh là Gia Lai, nhưng địa giới hành chính của tỉnh có nhiều thay đổi qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 245-NQ/TƯ về việc bỏ cấp khu, hợp tỉnh. Theo Nghị quyết này, tỉnh Gia Lai và Kon Tum được hợp nhất thành một tỉnh. Tên của tỉnh mới là Gia Lai-Kon Tum. Ngày 12-8-1991, theo Nghị quyết kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII, Gia Lai-Kon Tum tách thành hai tỉnh: Gia Lai và Kon Tum. Sau lần chia tách này, tỉnh Gia Lai có 10 đơn vị hành chính gồm: thị xã Pleiku và các huyện Chư Păh, Chư Prông, Chư Sê, Mang Yang, Kbang, An Khê, Kông Chro, Ayun Pa và Krông Pa. Từ sau khi chia tỉnh, Gia Lai tiếp tục chia tách để lập thêm một số huyện mới. Đến nay, toàn tỉnh có 17 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm TP. Pleiku, thị xã An Khê, thị xã Ayun Pa và các huyện Kbang, Kông Chro, Đak Pơ, Mang Yang, Đak Đoa, Chư Păh, Ia Grai, Đức Cơ, Chư Sê, Chư Prông, Krông Pa, Ia Pa, Phú Thiện, Chư Pưh. Đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn là 220, gồm 24 phường, 14 thị trấn và 182 xã.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
246830
-
76314
-
Hỏi từ APP VIETJACK51795
-
46076
-
43228
