Quảng cáo
5 câu trả lời 169
- Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (nhan đề, tác giả); nêu ý kiến khái quát về tác phẩm.
- Thân bài:
+ Nêu nội dung chính của tác phẩm.
+ Nêu chủ đề của tác phẩm.
+ Chỉ ra và phân tích tác dụng của một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
- Kết bài: Khẳng định ý nghĩa, giá trị của tác phẩm.
- Mở bài:
+ Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (nhan đề, tác giả); nêu ý kiến khái quát về tác phẩm.
- Thân bài:
+ Nêu nội dung chính của tác phẩm.
+ Nêu chủ đề của tác phẩm.
+ Chỉ ra và phân tích tác dụng của một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
- Kết bài:
+ Khẳng định ý nghĩa, giá trị của tác phẩm.
Mở bài: Giới thiệu tác giả và tác phẩm
Bà Huyện Thanh Quan là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng thời Nguyễn, sở hữu những vần thơ vừa thanh thoát, vừa thâm trầm, gợi lên nỗi lòng và tâm tư của con người trước thiên nhiên. Bài thơ "Qua Đèo Ngang" được viết khi bà đi ngang qua Đèo Ngang, một địa danh nổi tiếng với phong cảnh hùng vĩ nhưng cũng hoang vu, heo hút. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, nhớ quê hương và niềm trăn trở của tác giả khi đứng trước cảnh thiên nhiên bao la.
Thân bài: Phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ:
Bài thơ mở đầu với hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ và rộng lớn:
"Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa."
Ở đây, khung cảnh thiên nhiên hiện lên qua đôi mắt tinh tế của tác giả: ánh tà dương đã buông xuống, không gian trở nên u buồn và tĩnh lặng. Từ "chen" cho thấy sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đây, cây cối phải chen lấn để tồn tại giữa đá sỏi.
Nỗi cô đơn của con người:
Tác giả không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn lồng ghép nỗi cô đơn của mình:
"Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà."
Những hình ảnh "lom khom," "lác đác" gợi cảm giác thưa thớt, ít ỏi của sự sống. Cảnh vật không đông vui nhộn nhịp mà lại hiu quạnh, làm nổi bật nỗi lòng cô đơn của tác giả khi ở nơi đất khách quê người.
Tiếng lòng nhớ quê của người xa xứ:
Nỗi nhớ quê hương càng rõ nét hơn trong câu thơ:
"Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia."
Âm thanh tiếng chim "cuốc cuốc," "gia gia" như tiếng gọi, tiếng nhắc nhở của quê hương, làm cho lòng người càng thêm nhói đau, buồn bã. Tác giả như thấy chính nỗi nhớ quê của mình hòa vào tiếng kêu của các loài chim nơi rừng núi.
Nỗi u hoài trong cõi lòng:
Hai câu cuối thể hiện tâm trạng đầy u hoài, băn khoăn của nhà thơ:
"Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta."
Cảnh vật hiện ra như một bức tranh toàn cảnh, có trời, có non, có nước, nhưng không một bóng người để sẻ chia. Tác giả chỉ biết đối diện với “mảnh tình riêng ta với ta,” thể hiện nỗi cô đơn sâu sắc của một người xa quê.
Nghệ thuật ngôn ngữ đặc sắc:
Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn bát cú Đường luật với những từ ngữ được chọn lọc tinh tế, góp phần diễn tả nỗi cô đơn và niềm hoài niệm quê hương. Hình ảnh và ngôn ngữ giản dị nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc và nỗi lòng sâu sắc, làm cho bài thơ có sức lay động mạnh mẽ.
Kết bài: Khẳng định giá trị và ý nghĩa của tác phẩm
"Qua Đèo Ngang" không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà còn là lời tâm sự của một người phụ nữ, một người con xa quê, với nỗi nhớ nhà da diết và tâm trạng u hoài. Qua bài thơ, Bà Huyện Thanh Quan đã để lại cho chúng ta một tác phẩm tuyệt vời về cảnh và tình, để ta hiểu thêm về tâm trạng của những con người mang nặng nỗi lòng hoài cổ, nhớ quê hương trong thời kỳ phong kiến.
Dàn ý Viết bài văn phân tích một tác phẩm (truyện) - mẫu 1
- Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (nhan đề, tác giả); nêu ý kiến khái quát về tác phẩm.
- Thân bài:
+ Nêu nội dung chính của tác phẩm.
+ Nêu chủ đề của tác phẩm.
+ Chỉ ra và phân tích tác dụng của một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Thạch Lam là nhà văn tiêu biểu thuộc nhóm Tự lực văn đoàn. Truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa là một truyện ngắn xuất sắc của ông viết về đề tài trẻ em.
Truyện bắt đầu bằng khung cảnh của buổi sáng mùa đông được nhà văn khắc họa tinh tế. Chỉ sau một đêm mưa rào, trời bắt đầu nổi gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến khiến con người tưởng rằng mình đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung chăn tỉnh dậy, cậu thấy mọi người trong nhà, mẹ và chị đã trở dậy, ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Mọi người đều “đã mặc áo rét cả rồi”. Ở ngoài sân “Gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Bầu trời không u ám, toàn một màu trắng đục”. Những cây lan trong chậu “lá rung động và hình như sắt lại vì rét”. Và sơn cũng thấy lạnh, cậu vơ vội cái chăn trùm lên đầu rồi gọi chị.
Mẹ Sơn đã bảo Lan - chị gái của Sơn vào buồng lấy thúng áo ra. Mẹ Sơn lật cái vỉ buồm, lục đống quần áo rét. Bà giơ lên một chiếc áo bông cánh xanh đã cũ nhưng còn lành. Đó chính là chiếc áo của Duyên - đứa em gái đáng thương của Sơn đã mất năm lên bốn tuổi. Người vú già đã “với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ”. Khi nghe mẹ nhắc về em gái, Sơn cũng cảm thấy “nhớ em, cảm động và thương em quá”. Cậu xúc động khi thấy mẹ “hơi rơm rớm nước mắt”. Chiếc áo bông chính là kỉ vật gợi nhớ về người em gái đã mất với biết bao tình yêu thương sâu sắc.
Sau khi mặc xong áo ấm, chị em Sơn đi ra chợ chơi.Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc - những đứa trẻ em nghèo khổ vẫn phải mặc những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Môi chúng nó “tím lại”, chỗ áo quần rách “da thịt thâm đi”. Gió lạnh thổi đến, chúng nó lại “run lên, hai hàm răng đập vào nhau”. Khi nhìn thấy Sơn và Lan trong những bộ quần áo ấm áp, chúng cảm thấy xuýt xoa, ngưỡng mộ. Hai chị em Sơn tỏ ra thân thiết với chúng chứ không khinh khỉnh như các em họ của Sơn.
Và đặc biệt là khi Lan nhìn thấy Hiên đang đứng “co ro” bên cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”. Cả hai chị em đều cảm thấy thương xót cho con bé. Sơn chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt thoáng qua trong tâm trí Sơn - đó là đem chiếc áo bông cũ của em Duyên cho Hiên. Nghĩ vậy, cậu đã nói với chị gái của mình, nhận được sự đồng tình của chị. Chị Lan đã “hăm hở” chạy về nhà lấy áo. Còn Sơn thì đứng yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”. Cái áo cũ mà chị em Sơn đem cho Hiên thể hiện tấm lòng nhân hậu của hai đứa trẻ.
Về đến nhà, hai chị em Sơn lo lắng khi người vú già biết mẹ đã biết chuyện hai chị em lén mang áo cho Hiên. Sơn cảm thấy lo lắng, sợ hãi và sang nhà tìm Hiên để đòi lại áo. Nhưng đó là một phản ứng bình thường của một đứa trẻ khi mắc lỗi và bị phát hiện. Đến khi trở về nhà, chị em Sơn vô cùng ngạc nhiên khi thấy mẹ con cái Hiên đang ở nhà mình. Mẹ Hiên đem chiếc áo bông đến trả mẹ của Sơn. Có thể thấy dù sống khó khăn, khổ cực nhưng bà vẫn giữ vững phẩm chất tốt đẹp: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Còn người mẹ của Sơn, sau khi nghe rõ việc, bà đã cho mẹ của Hiên mượn năm hào về may áo ấm cho con. Điều đó thể hiện mẹ Sơn là một người trái tim nhân hậu. Sau khi mẹ con Hiên về, mẹ Sơn không tức giận, đánh mắng con mà còn “vẫy hai con lại gần, rồi âu yếm”. Đó chính là tấm lòng vị tha cũng như giàu lòng yêu thương của người mẹ.
Truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” nhẹ nhàng mà thật sâu sắc. Tác phẩm đã giúp người đọc hiểu hơn về giá trị của tình yêu thương giữa con người. Đây quả là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Thạch Lam.
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam, "Chí Phèo" của Nam Cao là một tác phẩm xuất sắc và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Được viết năm 1936, "Chí Phèo" không chỉ là câu chuyện về một người đàn ông bất hạnh mà còn phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến, nơi mà những con người nghèo khổ bị gạt ra ngoài lề cuộc sống. Tác phẩm mang đậm giá trị nhân đạo, đồng thời phê phán mạnh mẽ xã hội cũ, những thói hư tật xấu của chế độ thực dân phong kiến.
Chí Phèo là một người đàn ông sinh ra trong nghèo khó, sống ở một làng quê hẻo lánh. Bị cuộc đời xô đẩy, Chí từ một người hiền lành, chất phác đã trở thành một tên lưu manh, côn đồ sau nhiều năm sống trong cảnh bị bỏ rơi, bị xã hội xa lánh. Nam Cao đã khắc họa Chí Phèo như một hình tượng của những con người bị tước đoạt quyền sống và quyền làm người trong xã hội phong kiến. Đặc biệt, hình ảnh Chí Phèo uống rượu và chửi bới trong những đêm khuya vắng, hay việc hắn bị Biểu tình làm nghề thầy lang rồi lại bị xã hội vùi dập phản ánh một cách chân thực cuộc sống khốn khó của những con người như Chí.
Mặc dù có những hành động tàn bạo, Chí Phèo vẫn là một nhân vật đáng thương, chứ không hoàn toàn xấu. Chính sự cô đơn, bị xã hội ruồng bỏ và không có một cơ hội làm lại cuộc đời đã tạo nên hình ảnh một người tội đồ trong một xã hội bất công. Tình huống Chí Phèo gặp Thị Nở là một bước ngoặt quan trọng, vì đó là lúc hắn nhận ra rằng con người có thể thay đổi, có thể sống tốt, được yêu thương. Tuy nhiên, sự biến đổi này lại không được xã hội chấp nhận, và Chí Phèo cuối cùng đã không thể thoát khỏi số phận.
Từ hình ảnh Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng một bức tranh đầy bi kịch về thân phận con người trong xã hội phong kiến, nơi mà nhân phẩm bị tước đoạt, và những người yếu thế không thể có được một cuộc sống tốt đẹp. Qua tác phẩm, Nam Cao cũng gửi gắm thông điệp sâu sắc về nhân đạo và sự tha thứ trong mối quan hệ giữa người với người.
Chí Phèo là một nhân vật điển hình trong văn học hiện thực Việt Nam, phản ánh sâu sắc bi kịch của con người trong xã hội phong kiến, đồng thời phê phán sự tàn bạo của chế độ và tiếng nói lên án mạnh mẽ những bất công của xã hội thời bấy giờ. Tác phẩm còn thể hiện sự khát khao về tự do, về một xã hội công bằng hơn, nơi mà con người không phải sống trong sự hèn mọn và bị vùi dập.
Kết luận: "Chí Phèo" là một tác phẩm xuất sắc của Nam Cao, vừa phản ánh một cách sâu sắc xã hội cũ vừa là tiếng nói nhân đạo mạnh mẽ, kêu gọi sự thay đổi và khát vọng cho một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hình ảnh Chí Phèo không chỉ là một người đàn ông bất hạnh, mà là biểu tượng của những con người nghèo khổ bị xã hội đẩy vào bước đường cùng, từ đó làm nổi bật thông điệp về lòng nhân ái và sự cần thiết của một xã hội công bằng.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
Hỏi từ APP VIETJACK52970
-
52885
-
39779
-
Hỏi từ APP VIETJACK37277
