Anh/ chị hãy viết đoạn văn phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật người con trai trong đoạn trích
CƠM MÙI KHÓI BẾP
(Hoàng Công Danh )
Bốn năm từ ngày lấy vợ, tết này anh mới đưa được cả vợ và con về quê. Từ Sài Gòn về miền Trung không hẳn quá xa, nhưng vì có đứa con nhỏ nên chuyện đi lại khó khăn. Mấy lần trước anh chỉ về một mình, dăm hôm lại trở vào. Lần này cả nhà mới được về quê, cho đứa con ăn tết quê nội lần đầu.
Bà mẹ ngoài sáu mươi đon đả chạy ra tận ngõ đón. Lưng bà đã bắt đầu cong hình đòn gánh. Tay phải bà cắp bồng đứa cháu nội, tay trái vẫn chèo móc thêm một túi xách. Đặt xong đồ đạc vào góc nhà, bà bảo: “Chắc bây đói bụng rồi, để mẹ đi nấu cơm cho ăn”. Cô con dâu còn mệt hơi xe đáp: “Chúng con ghé ăn trên thị xã rồi mới về đây”. Nói xong cô quay sang chồng: “Bún nuốt chả trôi nữa là cơm”.
Bà hơi chạnh lòng: “Về tới xứ mình rồi còn ăn chi dọc đường dọc sá cho tốn tiền. Thôi ra rửa ráy, để mẹ đi pha nước chanh cho bây uống. Chanh vườn nhà mình chứ không phải chanh Tàu đâu. Uống vô cái khỏe liền”.
[…]
Hôm sau bà lọ mọ dậy từ lúc trời chưa hửng sáng, nhóm lửa rơm bắc nồi cơm. Thằng cháu nội ba tuổi chạy xuống thấy khói bếp bốc ngùn ngùn, khiếp quá hét toáng lên: “Cháy nhà”. Anh chị đang ngủ giật mình vùng dậy. Anh bảo nhà đã có bếp gas, mẹ nấu gì thứ rơm đó nữa cho cực. Bà cười: “Tụi bây ăn cơm nồi cơm điện thành phố quen rồi, về quê mẹ nấu cơm lửa rơm cho thơm mùi đồng mùi rạ. Mà cơm nấu rơm mới có miếng cháy ăn giòn. Mấy hồi anh nhỏ, bữa ăn không có miếng cơm cháy là giãy nảy lên bướng bỉnh chẳng chịu ăn. Nhớ không?”.
[…]
Cô con dâu bảo: “Mẹ bày ra nấu bữa sáng làm gì cho cực. Chúng con ra quán ăn miếng là rồi việc”.
“Bây nói chi lạ. Ăn uống phải đàng hoàng chớ. Bữa sáng là quan trọng lắm. Không ai thương bằng cơm thương đâu con. Ăn cơm chắc bụng no lâu. Mấy cái thứ bún cháo nước õng ệu, chỉ nhoáng là đói lại liền à” - bà vừa san cơm ra chén vừa nói.
Ba chén cơm trắng, đĩa cá đồng kho nghệ. Anh háy mắt qua vợ ý bảo ăn đi, ăn lấy lòng mẹ một miếng. Chị lại háy mắt qua anh lắc đầu, có mà sức Thánh Gióng mới nuốt trôi. Thằng cu con nhìn chằm chằm chén cơm. Cuối cùng chỉ có anh trệu trạo làm được ba miếng, như là ăn tượng trưng cho mỗi người một miếng. Tranh thủ lúc mẹ đi ra giếng, anh lùa cả ba chén cơm trắng vào lại nồi.
Sáng hôm sau bà lại dậy sớm. Lại nhóm bếp rơm nấu cơm. Xong bữa nồi cơm không vơi được là mấy, vẫn đầy như lòng mẹ. Anh gắng ăn được nửa chén. Chén lòng san đôi cho mẹ cho vợ. Anh dối mẹ chở vợ con đi xem chợ tết, đi thăm thú làng quê, thực chất là để ghé quán cho vợ con ăn bún ăn cháo.
[…]
Chưa hết tết, mới ngày mùng bốn anh lại phải đưa vợ con vào Sài Gòn. Bà mẹ dậy sớm làm gà, nấu cơm. Vẫn một mình bà cặm cụi với cái bếp. Bà xúc đầy đơm cơm vào chiếc cà mèn. Gà luộc cho vào hộp đựng. “Bây đem lên xe mà ăn. Cơm dọc đường dọc sá không ngon đâu”.
Con cháu lên taxi rồi bà còn dặn theo: “Vào trong nhớ ăn uống đàng hoàng nghe bây. Đừng bỏ bữa sáng. Không ai thương bằng cơm thương”.
Vào tới Sài Gòn cà mèn cơm vẫn còn một nửa. Vợ định đem đi đổ. Anh can bảo để đấy, phơi khô cất giữ làm kỷ niệm.
***
Qua tháng ba nghe tin mẹ bệnh, anh tức tốc về nhà. Nằm trên giường, gặp con câu đầu tiên bà hỏi: “Con ăn chi chưa? Mẹ không bắc cơm được. Thôi ra đầu chợ ăn tạm. Bữa nào khỏe mẹ nấu cơm cho ăn. Tội nghiệp”.
Nhưng mẹ không khỏe nữa, yếu dần, được thêm hai bữa thì nhắm mắt.
Đưa mẹ ra đồng xong, về nhà nhìn chén cơm trắng đặt trên bàn thờ, anh thấy nhói lòng. Ân hận. Thế là hết cơ hội được ăn với mẹ một chén cơm sáng thật đầy, để nghe mẹ nói câu “không ai thương bằng cơm thương”.
Tiếc nuối. Thèm miếng cơm cháy mẹ nấu quá. Giòn và thơm, mùi hương đồng mùi nước quê, cả mùi khói bếp. Chỉ có mẹ mới nấu được miếng cơm cháy ngon như thế.
Hôm lên đường vào Sài Gòn, anh dậy sớm nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ. Anh tự mình vo gạo, tự mình nhóm bếp rơm. Loay hoay một hồi. Bếp nhà đầy khói. Và khói...
(Cơm mùi khói bếp, Hoàng Công Danh, in trong Chuyến tàu vé ngắn, tập truyện ngắn, NXB Trẻ, TP. HCM, 2015, T
Quảng cáo
2 câu trả lời 3434
Trong đoạn trích "Cơm mùi khói bếp" của Hoàng Công Danh, tâm trạng nhân vật người con trai trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, đặc biệt là cảm giác ân hận và tiếc nuối về sự thiếu thốn trong tình cảm gia đình.
Khi trở về quê ăn Tết, anh cảm nhận rõ sự quan tâm, chăm sóc tận tình của người mẹ. Bà dậy từ sáng sớm, lo từng bữa ăn cho con cháu, nhất là bữa cơm nấu bằng lửa rơm – món ăn đặc trưng của quê hương. Tuy nhiên, anh lại không thể ăn ngon miệng, dù đã cố gắng vì lòng hiếu thảo, bởi lối sống thành phố khiến anh không quen với những bữa cơm giản dị như vậy. Sự khác biệt giữa thói quen ăn uống thành thị và quê nhà tạo ra một sự ngại ngùng trong anh. Anh cảm thấy khó xử giữa việc phải làm vui lòng mẹ và sự không thoải mái trong bữa ăn.
Sự chuyển biến tâm lý bắt đầu từ lúc anh "lùa cả ba chén cơm trắng vào lại nồi", hành động này thể hiện sự khước từ vô thức của anh đối với tình cảm chân thành mà mẹ dành cho mình. Khi mẹ loay hoay nấu bữa sáng cho anh, anh lặng lẽ đi ra ngoài, dối mẹ để được ăn ngoài quán. Tâm trạng của anh lúc này là sự mệt mỏi và xa cách với truyền thống, những gì mẹ nấu đã không còn làm anh cảm thấy thoải mái, mà trở thành gánh nặng.
Tuy nhiên, khi mẹ qua đời, anh bỗng nhiên nhận ra giá trị của những bữa ăn mẹ nấu, những miếng cơm cháy giòn thơm, mùi khói bếp gắn liền với kỷ niệm tuổi thơ. Sự ân hận hiện lên rõ ràng khi anh nhớ lại những bữa cơm không trọn vẹn bên mẹ. Đặc biệt là trong khoảnh khắc cuối cùng, khi mẹ yếu dần, anh lại là người tự tay nhóm bếp, nấu cơm và cảm nhận khói bếp là dấu hiệu của tình yêu thương vô bờ của mẹ. Anh tự dằn vặt vì đã không trân trọng những khoảnh khắc ấy khi mẹ còn sống.
Cuối cùng, khi mẹ qua đời, anh chỉ còn lại sự tiếc nuối và niềm đau đớn không thể vãn hồi. Chén cơm để trên bàn thờ mẹ trở thành biểu tượng của sự tiếc thương và ân hận sâu sắc. Anh hối hận vì không thể nắm bắt cơ hội để ăn với mẹ một bữa cơm đầy đặn như ngày xưa, để nghe câu "không ai thương bằng cơm thương".
Tâm trạng nhân vật người con trai là một quá trình đầy mâu thuẫn giữa lòng hiếu thảo và sự xa cách, cuối cùng dẫn đến sự thức tỉnh về tình cảm gia đình khi đã quá muộn màng. Câu chuyện gửi gắm thông điệp sâu sắc về sự trân trọng những giá trị giản dị trong cuộc sống, đặc biệt là tình mẹ con, mà đôi khi chúng ta chỉ nhận ra khi đã mất đi.
1. Mở đoạn:
- Tổng quan về tác phẩm và nhân vật.
- Đưa ra nhận định tổng quát về nhân vật Mên.
2. Thân đoạn:
- Đặc điểm của nhân vật Mên:
+ Tấm lòng nhân hậu và tình yêu thương sâu sắc đối với động vật, được thể hiện qua lời nói và hành động:
+ Lời nói: bày tỏ nỗi lo lắng về sự an nguy của bầy chim chìa vôi với Mon.
+ Hành động: quyết định ra bờ sông để nhìn xem nước đã ngập bầy chim chìa vôi: Chỉ huy Mon để phối hợp kéo đò về bến "Bây giờ tao kéo còn mày đẩy", buộc dây đò vào người và gò lưng kéo, ...
- Nhận xét, đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Xây dựng nhân vật thông qua lời nói và hành động cụ thể.
+ Ngôn từ gần gũi, hình ảnh trong sáng.
- Nêu ý nghĩa của hình tượng nhân vật: Thông qua nhân vật Mên, tác giả muốn thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca tình yêu thiên nhiên và trân trọng sự sống đầy vô tư, hồn nhiên của trẻ thơ.
3. Kết đoạn:
- Nêu đánh giá khái quát về nhân vật Mên.
Quảng cáo
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
33834
-
Hỏi từ APP VIETJACK24802