THÈM MÙI ĐẤT
(Bình Nguyên Lộc)
Sau khi tường trình xong về công việc của ban trị sự vừa mãn nhiệm kỳ hôm nay, ngày
cuối năm dương lịch 1964, ngày nhóm buổi đại hội thường niên, và trước khi bầu ban trị sự
mới, với lại trước khi ngồi vào bàn tiệc cũng thường niên, tổ chức ở sân nhà ông Hội trưởng
của “Hội Tương Tế tỉnh B” ông Hội trưởng cao niên, hiền lành, dễ thương của cái đồng hương
hội ấy than:
- Bà con cô bác ơi, mấy năm nay ban trị sự khổ sở nhứt, không phải vì vấn đề tài chánh,
thường là bài toán bể đầu đối với các hội nho nhỏ như ta, không có cơ sở kinh tài, chỉ đứng
vững tương đối và tạm bợ dựa vào tiền niên liễm của anh chị em hội viên, mà khổ sở vì một
chuyên lặt vặt mới kỳ cho chớ!
Ông Hội trưởng nầy và ban trị sự của hội cứ được bầu đi bầu lại mãi, nên ông biết rõ mọi vấn đề như bất kỳ những người có trách nhiệm nào mà giữ chức vụ một cách trường kỳ.
- Về chuyện gì đó a... ông Hội trưởng? Một vị hội viên cũng rất cao niên, người ủng hộ tài
chánh cho đồng hương hội tỉnh B hỏi như vậy. Ông nầy rất giàu có và nhứt là rất tốt bụng,
lần nào hội túng tiền, ông cũng giúp đỡ cho, nếu đó là một số tiền lớn thì ông cho mượn,
bằng như hội cần năm ba ngàn, ông luôn luôn tặng không.
- Về cái nghĩa trang ấy mà!
- Sao, nghĩa trang làm sao?
Vị ủng hộ viên nầy cũng gần tới tuổi quay đầu về núi rồi nên ông rất chú tâm đến cái nơi
an nghỉ cuối cùng của ông trong một tương lai rất gần. Ông đoán rằng đây là vấn đề hàng
rào chớ không có gì lạ, nhưng vẫn tò mò và nóng lòng biết đích xác ngay sự việc.
Phía trong chợ ông Tạ có một khu nghĩa trang cho gần hai mươi tỉnh của miền Nam. Non
hai mươi nghĩa trang ấy nằm khít ranh với nhau. Tỉnh B quá gần Sài Gòn nên chi từ ngày
thành phố nầy được thành lập cho tới năm ấy, người gốc tỉnh đó không tậu nghĩa trang
riêng, ai có tiền thì đưa xác người thân về quê, không tốn kém bao nhiêu, ai nghèo lắm thì
nằm đất ở nhà chùa nào đó. Nhưng từ những năm có biến cố, việc đưa xác về quê rất bất
tiện nên nghĩa trang nầy mới được thành lập, dĩ nhiên là nó sanh sau đẻ muộn hơn tất cả
mọi nghĩa trang khác.
- Thưa hiền hữu, ông Hội trưởng đáp, nói cho đích xác ra, thì đó là vấn đề người coi sóc
nghĩa trang... Như năm rồi ban trị sự phải thay ba người, mà người cuối cùng cũng lại xin thôi
việc, vào dịp Tết ta tới đây, tức là trong hai tháng nữa.
Không ai ngạc nhiên hết. Người ít, công việc nhiều, ngoại nhơn lại trả lương cao lại rất
khó lòng mà giữ công nhân, nơi nào cũng vậy. Phương chi khoản thù lao cho một người săn
sóc các nghĩa trang thật là ít ỏi, vì quỹ của hội không dồi dào, thì ai còn muốn giữ chỗ làm gì!
Ông Phán Tỷ hỏi:
- Tôi nghe nói hội nhà cho y độc quyền đào huyệt mả để y kiếm thêm nuôi vợ con, nghĩa
là tương đối cũng đã đủ sống ra. Như vậy sao y còn...
Ông Tham sự trẻ tuổi tên là Cầm cãi lại:
- Đủ sống nghĩa là chỉ đủ ăn cơm mà thôi. Y rất chánh đáng mà muốn uống cà-phê, muốn
nhậu la-de như bao nhiêu công nhân khác. Vả lại người công nhân nào thấy phu xích lô đạp
kiếm mỗi tháng mười ngàn đồng (con số của năm 1964), lại không ham!
- Thưa quí vị hội viên với lại bà con cô bác, không phải như vậy, ông Hội trưởng đính
chánh. Tất cả đều đòi thôi việc để về xứ.
- À, cái đó thì hơi khó hiểu. Ông kỹ sư Minh nhận xét. Ngỡ họ thôi việc để đi làm phu - À, cái đó thì hơi khó hiểu. Ông kỹ sư Minh nhận xét. Ngỡ họ thôi việc để đi làm phu cho
các hãng thầu Huê Kỳ thì còn có lý do, chớ còn bỏ chỗ làm để trở về những làng xa không
an ninh mà họ đã phải rời thì thật là kỳ. À, hình như ông Hội trưởng có cho biết là phải nông dân mới làm nghề đó?
Ông Hội trưởng xác nhận:
- Ừ, mà nhứt là phải là nông dân chơn ướt chơn ráo mới tới Sài Gòn, chưa tìm được việc,
họ mới nhận chịu một chỗ làm ít lương như vậy. Quanh nghĩa địa là bụi rậm, là chồi tre, là
đồng trống, dân Sài Gòn họ quen ở chen chút với nhau từ lâu, họ sợ ma lắm, đâu có dám coi
sóc nghĩa địa.
- Nhưng các nghĩa trang khác thì sao? Ông ủng hộ viên tài chánh hỏi.
- Dạ, thưa ông anh, các nghĩa trang khác có đã lâu đời rồi, khiến nghĩa trang đã được bốn
thế hệ người chôn trong đó, ở lắm nghĩa trang như nghĩa trang của tỉnh Sa Đéc chẳng hạn,
người coi sóc nghĩa trang cha truyền con nối, họ đâu có xin thôi, còn các nghĩa trang ít lâu
đời hơn, nhưng cũng được bốn, năm mươi tuổi, thì người coi sóc lại đã quá già, không tính
chuyện đổi nghề, đổi chỗ ở nữa.
- Họ có nói họ về xứ để làm gì hay không?
- Ai cũng nói họ nhớ nhà.
- Khung cảnh ở đó y hệt như ở nhà quê: cũng có tiếng gà gáy khuya, tiếng cu gù trưa,
tiếng chim hót, thì tôi tưởng họ tạm quên được xứ sở của họ chớ?
Người nói ra các ý nghĩ trên đây là một ông giáo sư về hưu, và câu nói của ông có vẻ văn
nghệ, tâm lý, triết lý lắm nên cả đại hội đồng đều đồng ý với ông, và vì vậy mà họ càng ngạc
nhiên hơn.
Chỉ có một vị bác sĩ trẻ tuổi là mỉm cười. Cử tọa làm thinh hơi lâu nên người hội viên trẻ
tuổi nầy mới dám có ý kiến. Ông ta biết kính lão.
- Thưa ông Hội trưởng, nếu ông Hội trưởng cho phép, tôi hy vọng sẽ thuyết phục y được.
Ông Hội trưởng cười hiền lành:
- Sao lại cho phép? Chính tôi phải yêu cầu bác sĩ giúp cho hội vượt khỏi bối rối ấy chớ.
- Với lại tôi cũng cần được phép của ông Hội trưởng để thực hiện vài điều lặt vặt nữa.
- Bác sĩ trọn quyền hành động.
Vấn đề xem như đã được thông qua. Người ta bầu ban trị sự mới và vì ban trị sự cũ làm
việc đắc lực trong nhiều nhiệm kỳ liên tiếp nên cuộc bỏ phiếu chỉ là một thủ tục lấy lệ mà
thôi.
Thế rồi bao nhiêu người đồng hương ấy, thuộc đủ giai cấp, nghề nghiệp, ngồi lại bàn tiệc
tất niên, và từ đó cho đến khuya, chỉ còn tiếng cười nói, chớ không ai nêu ra vấn đề rắc rối
nào nữa hết.
Không biết sau đó cái ông bác sĩ Xuân ấy đã gạt gẫm anh nông dân chất phác kia thế nào mà anh ta bằng lòng ở lại, không những không xin thôi nữa, mà Tết năm ấy, anh ta cũng
không về quê ăn Tết như năm trước đó.
Thường thì những chuyện điên đầu, không ai buồn xía vào làm gì, nếu đã có kẻ đưa lưng
ra gánh vác. Trong trường hợp nầy, kẻ ấy là ban trị sự, mà ban trị sự đã không kêu than nữa
thì họ an lòng rồi, hơn thế có nhớ tới vấn đề, họ cũng lờ đi, sợ khui chuyện ra, mỗi người lại
phải gánh lấy một chút thì phiền lắm.
Mãi cho tới năm 1966, cũng trong một bữa tiệc thường niên vào dịp cuối năm, ông ủng
hộ viên vụt hỏi ông Hội trưởng giữa hai ly rượu:
- À, tôi quên mất cái vụ người coi nghĩa địa. Bây giờ người ấy là ai? Có đòi thôi việc vì
nhớ nhà nữa hay không? Tôi cứ bị cái chết của chính tôi ám ảnh mãi nên tôi quên tất cả mọi
chuyện khác.
Ông Hội trưởng cười hiền lành mà rằng:
- Nhưng ông anh vẫn sống hoài để uống rượu với người đồng hương mỗi năm một lần.
Chúc ông anh sống thêm mười năm nữa.
- Cám ơn ông Hội trưởng, nhưng khi chợt nhớ đến người săn sóc nghĩa trang, tôi lại lo
chết và lại sợ trong ấy bị bỏ bê. À, ta đã rào xong rồi chớ?
- Dạ, đã xong! Giờ thì trâu bò, heo cúi không vô đó loạn xị như trước được nữa. Dạ, còn
nghĩa trang chẳng những không bị bỏ bê, lại còn đẹp hơn bao giờ hết, đẹp hơn tất cả nghĩa
trang của mười mấy tỉnh khác.
Ông kỹ sư Biện xác nhận sự kiện, phụ họa với ông Hội trưởng, lại trách cứ người trong hội:
- Đúng là đẹp hơn các nghĩa trang khác nhiều lắm. Các nghĩa trang khác, cái nào cũng u
buồn, còn nghĩa trang nhà thì rực rỡ màu sắc, nhìn vô, cứ tưởng đó là một vườn hoa. Bà con
tệ lắm, ít có ai vô thăm nghĩa trang lần nào hết.
Ông ủng hộ viên tài chánh cười ha hả mà rằng:
- Ai cũng sợ nghĩa địa nhắc nhở cái chuyến đi cuối cùng của con người nên nghĩa trang
không bao giờ là chỗ ngoạn cảnh của ai được hết.Ông ủng hộ viên tài chánh cười ha hả mà rằng:
- Ai cũng sợ nghĩa địa nhắc nhở cái chuyến đi cuối cùng của con người nên nghĩa trang
không bao giờ là chỗ ngoạn cảnh của ai được hết.
Ông Hội trưởng nói lên một sự kiện không hãnh diện cho lắm về các hội viên nói riêng:
- Có, các hội viên có vô trong ấy chớ sao không! Đó là những hội viên có mồ mả người
thân trong đó. Chỉ phiền là họ đã hết hội viên rồi. Hễ họ hưởng xong cái quyền lớn nhứt của
một hội viên, nghĩa là lấy xong một chỗ nằm cho cha, mẹ, vợ, con, rồi thì họ rút lui êm thắm,
không đóng tiền nguyệt liễm nữa.
Ông ủng hộ viên trở lại vấn đề người coi sóc nghĩa trang:
- Nhưng tôi vẫn chưa biết vấn đề người coi sóc đã được giải quyết ổn thỏa và vĩnh viễn
chưa?
29
-Thưa ông anh, đã giải quyết xong từ năm ấy. Cũng vẫn cứ là người cũ.
- Hay lắm, y hết nhớ nhà rồi hả?
- Dạ!
- Ông bác sĩ trẻ tuổi đó thuyết phục giỏi như Trương Nghi, Tô Tần. Ông ấy đâu rồi?
Mọi người đưa mắt sang khắp các bàn tiệc đó tìm kiếm con người hữu công ấy, nhưng
không ai tìm được ông ấy hết. Một thầy ký trẻ tuổi lên tiếng:
- Ông bác sĩ Xuân đi quân dịch từ hai năm nay rồi.
- Vậy à? Chắc ông ấy ở tiền tuyến xa nên từ hai năm nay, nhớ ra thì ông ấy không có mặt
trong hai bữa tiệc cuối năm. Nhưng ông ấy đã nói làm thế nào mà người kia chịu ở lại?
Ông Hội trưởng đáp:
- Ông ấy can thiệp để tôi cho phép người săn sóc nghĩa trang đó trồng bông Thọ ngay
trong nghĩa trang, để bán ở các chợ Tết năm đó rồi sang Giêng, lại cho phép người ấy trồng
đủ thứ bông hoa. Bây giờ thì y đã giàu rồi, vì bông huệ bán rất được tiền, và nhờ vậy mà
nghĩa trang nhà mới tươi tốt.
- Nhưng mà làm như vậy choán chỗ lắm!
- Thưa bà con, không choán chỗ đâu. Nghĩa trang nhà còn mới, đất trống còn nhiều. Vả
lại, bông hoa mềm yếu, rất dễ nhổ bỏ, lại không bao nhiêu tiền, nếu bị phá bỏ thì ban trị sự
cần bao nhiêu chỗ để đào huyệt mả thì y bứng bỏ bông hoa ở cái diện tích cần thiết đó mà
không phải tiếc công, tiếc của.
- Phải khá lên như vậy hắn mới chịu ở lại. Dầu sao ông bác sĩ đó cũng giỏi, chỉ giản dị vậy
mà ta không nghĩ ra.
- Thưa bà con, sự thật thì không phải chỉ giản dị như vậy đâu. Đây là một vấn đề triết lý về con người chớ không phải vừa.
- To chuyện dữ vậy lận sao?
- Dạ. Đó là chuyện lớn. Ban đầu tôi cũng ngỡ chỉ có như vậy, nhưng sau, một hôm vui
miệng, tôi hỏi ông bác sĩ Xuân, ổng nói ra sự thật, tôi mới biết đâu là đâu.
- Ừ, vậy sự thật ra sao?
- Dạ, quả thật, bây giờ kiếm được nhiều tiền rồi, người săn sóc nghĩa trang ham tiền, có
đuổi y đi, y cũng sẽ không đi nữa. Nhưng năm ấy thì y không hề ham tiền, hay cần tiền. Y chỉ
cần thứ khác mà thôi.
- Thứ gì?
- Chính triết lý là ở đó, và tài của ông Tô Tần cũng ở đó, chớ thật ra ông bác sĩ Xuân ăn nói
rất dở, không thuyết phục được ai hết.- Bây giờ thì bà con tôi rất nóng lòng biết cái chuyện ngộ nghĩnh và mới lạ đó.
- Ông bác sĩ Xuân ấy ổng cho biết rằng có một ông bác sĩ ở bên Âu, bên Mỹ gì đó tôi cũng
chẳng nhớ nữa, hình như tên là bác sĩ Xú-bi-rang (Soubiran.) Ông bác sĩ Xú-bi-rang ấy có viết
sách, có một ý kiến hay, đại khái như thế này: “Các chính phủ trên thế giới đều sai lầm mà bận
tâm về việc tăng lương mãi cho thợ thuyền mà thợ thuyền vẫn không mãn nguyện. Đành
rằng cũng phải tăng lương cho họ, ăn nhịp theo giá sinh hoạt nhưng đồng thời cũng phải
tìm biện pháp khác, sao cho họ mãn nguyện. Có như vậy họ mới sống vui và năng suất của
họ mới cao, chớ hiện giờ thì thợ thuyền làm việc miễn cưỡng lắm, lương có cao bao nhiêu
cũng thế. Họ không yêu nghề. Tại sao nông dân quá nghèo mà ít hay yêu sách? Không phải
nông dân kém ý thức về quyền lợi đâu. Nhiều nước văn minh, nông dân của họ còn hiểu biết
về cuộc sống hơn thợ thuyền nữa. Là tại nông dân họ yêu nghề, họ hạnh phúc được với sự
làm việc. Họ thương mến công việc là công trình riêng của họ từ lúc gieo giống cho tới ngày
hái trái. Họ lại ghiền mùi đất xới, vì đất xới có mùi riêng thật sự, một mùi rất đặc biệt mà thiếu
thì nghe thèm. Vậy không nên để cho nông dân quá nghèo, quá thiếu giải trí, phải ra thành
phố để làm thợ điện. Những người nào ham thành phố lắm, không quyến luyến đất thì nên
cho họ học năm, bảy nghề để rồi sau đó họ tự do lựa chọn nghề nào họ ưa nhứt, chứ đừng
để cho kẻ thích làm thợ sơn lại phải là thợ hồ”. Ấy ông bác sĩ Xuân ổng thấy ý kiến đó của
một đồng nghiệp xa xôi có lý phần nào nên ổng áp dụng thử, chứ không chắc là thành công.
“Người coi sóc nghĩa địa mỗi tháng chỉ đào có lối một, hai huyệt mã thôi, còn lại thì hắn
ăn rồi nằm, không có chung đụng với đất xới mà hắn thèm ngửi cái mùi đặc biệt của nó. Cái
mùi đất xới mà hắn ghiền ấy, là một yếu tố của tình quê hương, mà có lẽ là yếu tố quan trọng
nhứt, nên hễ cho phép hắn trồng trọt là hắn tạm quên được nỗi nhớ nhà, nhớ quê”.
Bao nhiêu thực khách chung bàn với ông Hội trưởng, nhìn nhau, lặng lẽ hỏi nhau điều ấy
có đúng hay là không. Một hồi lâu, ông giáo Quyền nói:
- Tôi nhớ năm ấy, tôi đang dạy học ở Bến Tre. Tôi cưới bà nhà tôi ở tỉnh ấy. Được hai năm thì
một cuộc thuyên chuyển đưa tôi lên Sài Gòn. Bà nhà tôi chưa có con, và ít công việc nên tối
ngày bà ấy cứ ngồi bó gối mà buồn. Chợt một bữa kia không biết do chuyện gì gợi ý bà nhà
tôi đi mua chậu, đi tìm đất, rồi đặt mấy cái chậu đất ấy ở sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp.
Bà nhà tôi trồng rau răm, rau tần dài, trồng hành hương, trồng ớt, không mấy tháng mà sân
trong không còn chỗ để chơn nữa vì chậu cứ được sắm thêm hoài, kể từ ngày ấy, bà nhà tôi
vui vẻ trở lại như hồi còn ở tình nhà, và vui vẻ cho tới ngày mà tôi đã có cháu ngoại rồi. Sở dĩ
tôi phải lùi ra ngoại ô xa mà ở, chỉ vì sau đó bà nhà tôi cần sân để phát triển trồng trọt. Ngày nay thì sân nhà tôi không thiếu gì hết, từ cây chanh, cây khế, cho đến cây mít, cây me, nhứt
là tôi có được hai cây dừa mà bà nhà tôi nhứt quyết phải trồng, vì quê bà ấy là xứ dừa, trồng
dừa cho đỡ thèm hình bóng cây dừa.
Ông ủng hộ viên tài chánh hỏi:
- Nhưng ngày kia, nghĩa trang khá đầy rồi, không còn đất để trồng trọt nữa, ta làm sao
thỏa mãn người gác ấy - Ông anh chớ có lo. Chừng đó, y đã già rồi, một là đã thương được cái xó đất mà mà ban
trị sự đã dành riêng cho y, dưới một bụi tre, ở sau nghĩa địa, hai là ý đã có sinh kế rồi, mà sinh
kế ấy không thể rời nghĩa địa mà mong kiếm ăn được.
- Y làm nghề gì?
- Mấy năm nay, y học nghề làm cẩm thạch giả, do các người thợ xây mộ dạy y lúc y theo
phụ giúp họ. Cái thời kì chuyển tiếp khó khăn để biến người nông dân thành người thợ, thời
kì kéo dài từ mấy năm nay và còn kéo dài thêm vài năm nữa, thời kì ấy đã được nghề trồng
bông hoa giúp y qua được một cách xuôi chèo mát mái thì không còn lo gì nữa!
(In trong Tập truyện ngắn Hương quê (Bình Nguyên Lộc), NXB Trẻ, 2018, tr. 334-344)
Câu hỏi
Câu 1. Nhận xét về nhan đề của truyện.
Câu 2. Liệt kê các sự kiện chính trong văn bản và cho biết dấu hiệu nào giúp bạn
nhận biết Thèm mùi đất là một truyện ngắn.
Câu 3. Xác định nhân vật chính của truyện. Nhân vật chính được tác giả miêu tả qua
những khía cạnh nào?
Câu 4. Chỉ ra những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của văn bản.
Câu 5. Viết một đoạn văn nghị luận về một vấn đề xã hội được nêu ra trong văn bản
Thèm mùi đất.
Quảng cáo
1 câu trả lời 1678
Câu 1: Nhận xét về nhan đề của truyện
Nhãn đề "Thèm mùi đất" gợi lên một cảm giác sâu lắng về quê hương và nỗi nhớ đất. Nó thể hiện tâm tư của nhân vật, đồng thời khắc họa sự gắn bó giữa con người và quê hương qua những hình ảnh quen thuộc. Nhan đề cũng chứa đựng ý nghĩa biểu tượng về cuộc sống nông dân, sự thiếu thốn và những khao khát giản dị của con người.
Câu 2: Liệt kê các sự kiện chính trong văn bản và dấu hiệu nhận biết truyện ngắn
Các sự kiện chính trong văn bản:
1. Cuộc họp của "Hội Tương Tế tỉnh B" vào cuối năm 1964.
2. Vấn đề khó khăn trong việc giữ chân người coi sóc nghĩa trang.
3. Đề xuất của bác sĩ Xuân về việc cho phép người coi sóc nghĩa trang trồng hoa.
4. Sự thay đổi trong tâm lý và cuộc sống của người coi sóc nghĩa trang sau khi được trồng trọt.
Dấu hiệu nhận biết "Thèm mùi đất" là một truyện ngắn bao gồm:
- Thời gian và không gian cụ thể.
- Cốt truyện có sự khởi đầu, phát triển và kết thúc.
- Tâm lý nhân vật được khai thác sâu, thể hiện qua các tình huống và đối thoại.
Câu 3: Nhân vật chính của truyện
Nhân vật chính của truyện là người coi sóc nghĩa trang, cụ thể là một nông dân chất phác. Tác giả miêu tả nhân vật qua các khía cạnh:
- Tâm lý: Nỗi nhớ quê hương, khao khát trở về với đất.
- Tình cảm: Gắn bó với công việc, yêu thích việc trồng trọt.
- Sự phát triển: Từ một người nhớ quê trở thành người có cuộc sống ổn định nhờ nghề trồng hoa.
Câu 4: Những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của văn bản
**Nội dung:**
- Khắc họa cuộc sống nông dân và những khao khát giản dị về quê hương.
- Đưa ra thông điệp về việc tìm kiếm hạnh phúc qua công việc và gắn bó với đất đai.
- Phản ánh sự khó khăn trong việc duy trì truyền thống và bản sắc văn hóa giữa cuộc sống hiện đại.
**Nghệ thuật:**
- Sử dụng lối viết chân thực, gần gũi.
- Khéo léo trong việc tạo tình huống, xây dựng nhân vật và đối thoại tự nhiên.
- Biểu tượng mùi đất, hoa màu được lồng ghép ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống và tình cảm con người.
Câu 5: Đoạn văn nghị luận về một vấn đề xã hội trong văn bản
Trong "Thèm mùi đất", vấn đề mà tác giả nêu bật chính là nỗi khát khao trở về với quê hương, một tâm lý không chỉ riêng của nhân vật mà còn là tâm tư của nhiều người dân Việt Nam sống xa quê. Cuộc sống hiện đại đã khiến nhiều người rời xa nơi mình sinh ra, để lại những kỷ niệm và cảm xúc sâu sắc về mảnh đất quê hương. Điều này phản ánh một thực tế xã hội: khi phát triển đô thị hóa, nhiều người không chỉ đánh mất không gian sống mà còn mất đi gốc rễ văn hóa của mình. Việc kết nối lại với quê hương, thông qua những hoạt động như trồng trọt, sẽ giúp họ tìm thấy niềm vui, sự bình yên trong cuộc sống. Chính vì vậy, xã hội cần tạo ra môi trường thuận lợi cho những người nông dân trở về với đất, giúp họ duy trì bản sắc văn hóa và gắn bó với quê hương.
Quảng cáo
Bạn muốn hỏi bài tập?
Câu hỏi hot cùng chủ đề
-
246644
-
76154
-
Hỏi từ APP VIETJACK51742
-
46009
-
43178
