Sơ đồ tư duy bài thơ Tràng giang dễ nhớ, hay nhất
Sơ đồ tư duy bài Tràng giang Ngữ văn lớp 11 hay nhất, dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ sơ đồ tư duy, tác giả, tác phẩm, dàn ý phân tích và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa, củng cố kiến thức các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11.
A/ Tác giả Tác phẩm bài Tràng Giang
I. Tác giả
- Huy Cận (1919-2005) quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
- Ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều trọng trách khác nhau
-Các tác phẩm chính:
+ Các tập thơ: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Những năm sáu mươi,...
+ Văn xuôi: Kinh cầu tự
⇒ Huy Cận là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại
II. Tác phẩm
1. Thể loại:
Thất ngôn.
2. Hoàn cảnh sáng tác
- Xuất xứ: “Lửa thiêng”
- Hoàn cảnh sáng tác: Vào mùa thu năm 1939 khi đứng trước sông Hồng mênh mông sóng nước.
3. Phong cách sáng tác
- Huy Cận là nhà thơ lớn, một đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ Mới với hồn thơ ảo não.
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lí.
4. Bố cục:
- Phần 1 (khổ 1): Cảnh sông nước và tâm trạng buồn của thi nhân
- Phần 2 (khổ 2 + 3): Cảnh hoang vắng và nỗi cô đơn của nhà thơ
- Phần 3 (khổ 4): Khung cảnh hoàng hôn kì vĩ và tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ.
5. Giá trị nội dung:
Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha
6. Giá trị nghệ thuật:
Bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại
B.Sơ đồ tư duy bài Tràng Giang
C. Dàn ý phân tích bài Tràng Giang
1. Cảnh sông nước và tâm trạng buồn của thi nhân.
* Hai câu thơ đầu:
– Câu thơ mở đầu nhắc lại nhan đề “tràng giang” với cách điệp vần “ang”: gợi sự ngân vọng vang xa cổ kính.
– Từ láy “điệp điệp”, “song song”: Khung cảnh sông nước gắn với tâm trạng buồn da diết, khôn nguôi.
– Hình ảnh:
+ “Sóng”: gợi lên từng đợt như những nỗi buồn chồng chéo trong tâm trạng.
+ “Thuyền” và “nước”: vốn luôn giao hòa nhưng trong câu thơ này lại lạc điệu, li cách.
* Câu thơ thứ ba:
– Hình ảnh: “thuyền” và “nước” lặp lại từ câu thơ trên nhưng vẫn không hề có sự đồng điệu mà còn tan tác hơn với nghệ thuật đối “thuyền về” >< “nước lại”.
– Từ ngữ trực tiếp miêu tả cảm xúc “sầu trăm ngả”: nỗi buồn từ trong lòng người lan rộng ra khắp cảnh vật, đất trời.
* Câu thơ cuối:
– Hình ảnh độc đáo “củi một cành khô lạc mấy dòng: sự trôi nổi, bấp bênh của thân phận cỏ cây hay cũng là của số kiếp con người giữa cuộc đời sóng gió trăm ngả.
– Nghệ thuật đảo ngữ và đối lập: tăng sức gợi hình, gợi cảm và giá trị biểu đạt cho câu thơ.
2. Cảnh hoang vắng và nỗi cô đơn của nhà thơ
* Khổ 2:
* Hai câu thơ đầu:
– Từ ngữ:
+ Khổ thơ bắt đầu bằng một câu thơ với hai từ láy gợi hình “lơ thơ” và “đìu hiu”: gợi tả nỗi buồn và sự nhỏ nhoi, thưa thớt, lạnh lẽo.
+ Từ phiếm chỉ “đâu” kết hợp với âm thanh “tiếng làng xa” có hai cách hiểu:
Âm thanh rất nhỏ, rất khẽ của phiên chợ chiều đã vãn vọng về từ một nơi xa không xác định.
Không có âm thanh tiếng chợ chiều.
Dù là cách nào thì khung cảnh tràng giang đều hiện lên mênh mông, vắng vẻ, hiu hắt.
– Hình ảnh: được mở rộng ra so với khổ thơ trước. Bức tranh thiên nhiên ở đây không chỉ có mênh mông sông nước mà còn có cồn nhỏ, có gió thổi, có xóm làng, có nắng chiều, có trời cao… nhưng vẫn toát lên vẻ hiu quạnh, lặng ngắt. Những dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện như những nốt nhạc cao hiếm hoi giữa bản đàn trầm buồn triền miên. Nó càng tô đậm thêm nỗi cơ đơn của con người.
* Hai câu thơ cuối:
– Hình ảnh “nắng xuống”, “trời lên”, “sông dài”, “trời rộng”, “bến cô liêu” đã vẽ nên một không gian rộng mênh mông, vô cùng, vô tận ở mọi sự vật, mọi chiều kích.
– Những tính từ gợi cảm xúc: “sâu chót vót”, “bến cô liêu” là sáng tạo đặc biệt của Huy Cận.
Không gian mở rộng ra ba chiều: sâu thăm thẳm, cao chót vót, rộng mênh mông.
* Khổ 3:
* Hình ảnh:
– Hình ảnh thực “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: những cánh bèo trôi nổi, phiêu dạt trên sông nước gây ám ảnh về số phận lạc lõng, cô đơn, vô định của con người trên dòng đời vô tận.
– Hình ảnh mong ước: con người mong muốn tìm tới những hình ảnh gần gũi, thân quen với cuộc sống trước cái vô cùng của vũ trụ. Đó là một chuyến đồ ngang qua lại, là một chiếc cầu nối đôi bờ xa cách. Mong ước có phần nhỏ bé, bình dị.
* Từ ngữ:
Phó từ phủ định “không” lặp đi lặp lại gắn với những hình ảnh mong ước của tác giả khiến cho những mong ước ấy dẫu bình dị, bé nhỏ cũng trở nên vô vọng. Cảnh vật lại rơi vào hoang vắng, lạnh lẽo. Con người lại rợn ngợp, lẻ loi giữa “bờ xanh tiếp bãi vàng”.
4. Khung cảnh hoàng hôn kì vĩ và tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ.
* Hai câu thơ đầu:
– Hình ảnh: thiên nhiên hùng vĩ với “mây cao” xếp thành nhiều tầng tạo nên liên tưởng về dãy “núi bạc” khổng lồ, với cánh chim nhỏ cô đơn, nhỏ bé và bóng chiều bao phủ, sà xuống trùm lên mọi cảnh vật.
– Từ ngữ:
+ “Đùn”: khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
+ “Nghiêng”: bóng hoàng hôn dường như sa suống quá nhanh khiến cho cánh chim phải nghiêng lệch để bay về phía trời xa xăm.
* Hai câu thơ cuối:
– Từ láy “dợn dợn” là một sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng với cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”.
D. Bài văn phân tích Tràng Giang
Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hoà mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho nét phong cách đó của Huy Cận.
Bài thơ được in trong tập thơ Lửa thiêng viết vào năm 1940, tác phẩm bộc lộ tâm trạng u buồn của con người trước cảnh vật rộng lớn bao la, khắc hoạ sự cô đơn buồn thương đến tuyệt đối.
Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang với âm hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bao la, bát ngát hơn (tràng giang đại hải). Tác giả dùng từ Hán - Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông. Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng gợn lô nhô gối nhau tới chân trời tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng sẵn nỗi buồn: buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về trăm ngả: sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính;
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán.
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ.
(Thuyền đi)
Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành củi khô chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát ngát của dòng sông: Củi một cành khô lạc mấy dòng. Từ rừng thẳm, cành củi qua bao sông suối mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng bị dòng đời cuốn trôi không biết về đâu.
Khổ thơ gợi tả cảnh với không gian sông nước mênh mông với những đường nét: song song, điệp điệp, nhưng lại: sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nên không hứa hẹn gì hội tụ, gặp gỡ mà chia tan, xa rời. Thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông rộng lớn với cảnh củi khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm nổi bật cảnh bát ngát, vô tận của dòng sông và thân phận lẻ loi, bé nhỏ của con người.
Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cô đơn, lạc loài trong cuộc đời cũ. Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được mở rộng ra và đẩy lên cao hơn.
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cồn nhỏ đơn côi giữa dòng sông, lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng hoang vu, hiu hắt, chìm khuất. Dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những thân phận bị dòng đời nhấn chìm xô dạt.
Không gian mở rộng sang bên bờ: cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ, xa lìa.. Cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao xác rồi mất hút dần trong cảnh mênh mang vắng lặng của dòng sông. Dòng sông và nhà thơ như bị tách ra khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm thương nhớ cuộc sống quê hương.
Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng: Nắng xuống trời lên sâu chót vót. Câu thơ giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc: từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ sâu của bầu trời như ở ngọn chót vót. Cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông:
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Dòng sông, bến bãi, đến bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ, buồn vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống. Nhưng cảnh càng xuất hiện càng lạc lõng, hờ hững:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".
Các sự vật được bên nhau: bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một thế giới không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết của cuộc sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định:
Mênh mông không một chuyến dò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi đến tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Chỉ có mặt nước mênh mông vắng lặng.
Tới ngã ba sóng nước bốn bề,
Nửa chiều gà lại gáy bên đê
(Em về nhà)
Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng cuộc sống. Nhà thơ đứng ngay giữa quê hương mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát gắn bó với con người, cuộc sống, với quê hương:
Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm
(Đảo)
Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".
Khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh ánh nắng trời. Tác giả bình: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp”. Một vẻ đẹp kì thú, ngời sáng, hùng vĩ.
Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ Phủ) nhưng lại có vẻ đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm cho bức tranh thêm sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh chim nhỏ như bị nắng chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm cho không gian như có hình khối, trọng lượng và thiên nhiên có vẻ như trĩu nặng nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mông lung xa vắng ấy càng gợi thêm lòng thương nhớ quê hương:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Con sóng lòng nhớ quê của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Hoàng Hạc Lâu)
Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ quê hương. Vì mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng. Đó là nguyên nhân chính của nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê hương khi đứng ngay giữa quê hương mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm sao! Bài thơ kết thúc là cảnh hoàng hôn trên sông nước và mở ra một tình quê bát ngát.
Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi đau cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gửi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết yêu quê hương đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt. Vì vậy, Xuân Diệu đánh giá: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san, Tổ quốc”.
Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.
E. Một số lời bình về tác phẩm Tràng Giang
Trong Thi nhân Việt Nam, tác giả Hoài Thanh đã từng nhận định về thơ Huy Cận hội tụ trong một chữ “buồn”: “Đời chúng ta nằm trong một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh.Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Nếu coi cốt lõi tinh thần thơ mới là một cái “tôi” buồn, thì Huy Cận đã nói thay điều đó cho cả thế hệ.
Thật đúng như thế, thơ Huy Cận trước 1945 là cả thế giới mênh mang của một nỗi sầu, mà như Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã từng nhận xét: “Ở Huy Cận, ta không thấy những tiếng kêu ầm ĩ, nóng nảy như ở tác giả Thơ Thơ và ta cũng không thấy cái buồn vơ vẩn và nhẹ nhàng như ở tác giả Tiếng thu. Huy Cận than thân thì ít mà góp tiếng khóc với đời thì nhiều”. “Góp tiếng khóc với đời” là nói thay lời buồn chung cho đời vậy!
Nỗi sầu thiên cổ trong thơ Huy Cận cơ hồ có đầu mối từ độ chất ngất Đường thi; đã thấm sâu vào ngấn lệ u sầu trong mắt người chinh phụ; để đến khi, đến những dự cảm phôi thai về một một chữ “sầu” trong con người “của hai thế kỷ” Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu:
Sầu không có mối, chém sao cho đứt
Sầu không có khối, đập sao cho tan
Đã bộc phát lên dữ dội, lên tột cùng chót vót sơn khê. Hãy đọc lại những câu thơ này để nghe tác giả họ “Cù” thủ thỉ:
Hỡi Thượng đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang
Sầu đã chín, xin Người thôi hãy hái
Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đường
(Trình bày)
Hay:
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn
Ngay cả những câu thơ được xem là trong sáng nhất, Huy Cận cũng không “trốn” khỏi được khoảng khắc trống trải, cô đơn:
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu
(Ngậm ngùi)
Tuy vậy, nếu chọn một thi phẩm tiêu biểu nhất cho “thứ tôn giáo về nỗi sầu” của Huy Cận, thì phải kể đến Tràng giang.
Khi Thơ mới được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông, bài thơ Tràng giang luôn không thiếu sau nhiều lần thay sách. Có điều là, để hiểu bài thơ này một cách đầy đủ, thấy được ý nghĩ triết lý và cái buồn thế sự về thân phận con người, thấy được thi tứ độc đáo qua việc xây dựng các trục thi liệu về thời gian, không gian mang phong cách thơ Huy Cận thì không phải dễ dàng. Chỉ dựa trên bề nổi ngôn từ thì Tràng giang chỉ là một nỗi buồn, nhưng cảm nhận ở chiều sâu tư tưởng thì tác phẩm là một triết lý nhân sinh sâu sắc.
Huy Cận viết bài thơ này năm 1939, khoảng thời gian tác giả học Cao đẳng Canh nông ở Hà Nội. Theo Huy Cận, bài thơ gợi cảm hứng từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước. Nên từ nhan đề, câu thơ đề từ đến hệ thống hình ảnh đều gợi ra cả một thế giới tạo vật rộng lớn, mênh mang. Đó là một thế giới không đầu không mối: “con thuyền xuôi mái nước song song”, “thuyền về, nước lại”, “củi một cành khô lạc mấy dòng”…; không bờ không bến: “lơ thơ cồn nhỏ…”, “đâu tiếng làng xa”, “nắng xuống, trời lên sâu chót vót”…; đứt tung, không một mối liên kết nào: “con thuyền xuôi mái nước song song”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”… Trong Lời tựa viết cho tập Lửa thiêng, Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Cảm giác nổi trội nhất của ta là cảm giác không gian”. Khác với Nguyễn Khuyến trước đây khi quan sát cảnh thu, ông phải lựa chọn vị trí giữa ao (trong bài Thu vịnh) để miêu tả cảnh thu cho thật bao quát. Còn Huy Cận thì, trong không gian đa chiều rộng lớn ấy, con người trở nên nhỏ bé, bơ vơ, vô định – một cái tôi “phi ngã” trước tạo vật vũ trụ. Đó chính là thân phận kiếp người theo góc nhìn của Huy Cận trước 1945. Khác với những cách định nghĩa về bản thân của các nhà thơ mới khác trong bối cảnh lịch sử này. Bối cảnh xã hội mà GS. Trần Đình Sử từng có lí khi cho rằng: Xã hội truyền thống với những sợi dây liên kết cộng đồng đã đứt tung, thay vào đó là những cái tôi cá nhân vô định, mất phương hướng, không liên kết khi bình về câu thơ “Không cầu gợi chút niềm thân mật”.
GS. Hoàng Như Mai trước đây khi lí giải con người hai mặt vừa yêu đời (Tôi là một cây kim bé nhỏ/ Mà vạn vật là muôn đá nam châm), nhưng lại lắm bi quan (Chiếc đảo hồn tôi rợn tứ bề) của Xuân Diệu có nguyên nhân sâu xa từ thân phận mất nước, nô lệ. Nỗi sầu của Huy Cận cũng có căn do từ hoàn cảnh ấy. Nỗi buồn được khởi phát từ các nhà thơ cuối mùa trung đại (Tế Xương…), đến các thi nhân buổi giao thời (Tản Đà…) và đã thật sự “chín” trong Thơ mới 1930-1945, mà đỉnh điểm là Huy Cận.
Học giả Phan Ngọc từng cho rằng Tràng giang có chất Đường thi hơn những bài thơ Đường trung đại. Chính Huy Cận cũng thừa nhận ông đã lấy cảm hứng từ ý thơ của Đỗ Phủ, Thôi Hiệu đời Đường, của Chinh phụ ngâm để cho bài thơ đạt đến phong vị cổ điển. Tuy nhiên giữa các cái “tôi” của thi nhân thì khác hẳn. Huy Cận trong Tràng giang mang cảm hứng của cái “tôi” thế cuộc, cái tôi thế sự nâng lên tầm triết lý về phận người. Chẳng hạn, nỗi buồn trong Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu là nỗi buồn xuất phát ở thực tại ý thức về quá khứ, còn nỗi buồn trong Tràng giang là nỗi buồn cũng từ thực tại nhưng lại ý thức về cái tôi, về tình người, tình đời, tình đất nước, quê hương…